[Download] Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung): Phần 2 – TS Nguyễn Ngọc Kiện – Tải về File Word, PDF
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung): Phần 2 – TS Nguyễn Ngọc Kiện
Nối tiếp phần 1, Giáo trình Luật hình sự Việt Nam: Phần 2 do TS Nguyễn Ngọc Kiện chủ biên có nội dung trình bày trách nhiệm hình sự và hình phạt, hệ thống hình phạt và các biện pháp tư pháp, quyết định hình phạt, trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội, trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, các chế định liên quan đến chấp hành hình phạt,…
Bạn đang xem: [Download] Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung): Phần 2 – TS Nguyễn Ngọc Kiện – Tải về File Word, PDF
*Ghi chú: Có 2 link để tải tài liệu, Nếu Link này không download được, các bạn kéo xuống dưới cùng, dùng link 2 để tải tài liệu về máy nhé!
Download tài liệu Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung): Phần 2 – TS Nguyễn Ngọc Kiện File Word, PDF về máy

Nội dung
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung): Phần 2 – TS Nguyễn Ngọc Kiện
Nội dung Text: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung): Phần 2 – TS Nguyễn Ngọc Kiện
- CHƯƠNG 11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT
Chương 11
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm hình sự
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm hình sự
Thuật ngữ “trách nhiệm” có thể được hiểu theo hai nghĩa. Một
là, trách nhiệm là nghĩa vụ, bổn phận mà một chủ thể phải thực hiện.
Hai là, trách nhiệm là hậu quả bất lợi của chủ thể do đã thực hiện hành
vi vi phạm. Trách nhiệm pháp lý được hiểu theo nghĩa thứ hai. Trách
nhiệm pháp lý là hậu quả bất lợi mà một chủ thể phải chịu do đã thực
hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Trách nhiệm pháp lý bao gồm trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm kỷ luật, trách nhiệm dân sự và trách nhiệm hình sự. Trách
nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước mà người
phạm tội phải chịu do đã thực hiện hành vi bị coi là tội phạm.
Cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc một người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm. Việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội được thực hiện bởi các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, cơ1
Trong Chương này chỉ đề cập đến những vấn đề chung về trách nhiệm hình sự và khái niệm,
mục đích của hình phạt, còn hệ thống (các loại) hình phạt và vấn đề trách nhiệm hình sự và
hình phạt đối với pháp nhân thương mại sẽ được đề cập tại Chương khác của Giáo trình này.183
- Giáo trình LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Phần chung)
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra,
thể hiện bằng các quyết định tố tụng như quyết định khởi tố bị can,
bản kết luận điều tra đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra, bản cáo
trạng, quyết định truy tố (trong trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn)
của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, người phạm tội có thể không phải chịu
trách nhiệm hình sự nếu đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự hoặc người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định
của luật hình sự. Người phạm tội chỉ có thể phải chịu trách nhiệm hình
sự nếu hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ đã được chứng minh theo
trình tự do pháp luật quy định, bị đưa ra xét xử và bị Tòa án kết án bằng
bản án kết tội. Bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án đối với
người phạm tội là văn bản xác nhận chính thức người phạm tội “bị coi
là có tội”. Bản án kết tội của Tòa án đối với người phạm tội thường gắn
liền với quyết định loại và mức hình phạt cụ thể áp dụng đối với người
phạm tội nhưng bản án kết tội cũng có thể kèm theo quyết định miễn
hình phạt đối với người phạm tội.
Như vậy, nói đến trách nhiệm hình sự là nói đến hậu quả pháp lý
bất lợi mà người phạm tội phải chịu trước Nhà nước do đã thực hiện
hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm được thể hiện ở bản án kết tội
của Tòa án đối với người phạm tội. Tuy nhiên, nội dung trách nhiệm
hình sự mà người phạm tội phải chịu có thể gồm hình phạt nếu bản
án kết tội của Tòa án đi kèm với việc quyết định hình phạt hoặc không
có hình phạt nếu bản án kết tội của Tòa án lại gắn với quyết định miễn
hình phạt đối với người phạm tội.
Bản án kết tội của Tòa án có quyết định hình phạt thường để lại
hậu quả là người bị kết án bị coi là có án tích ngay sau khi bản án đó
có hiệu lực pháp luật (trừ trường hợp không bị coi là có án tích theo
quy định tại khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 2015). Người bị kết
án chỉ được xóa án tích khi đáp ứng các điều kiện do luật định tại các
điều 70, 71, 72 và 73 Bộ luật Hình sự năm 2015.184
- CHƯƠNG 11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm trách nhiệm
hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành như sau: Trách
nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu
trước Nhà nước do người đó đã thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là
tội phạm, được thể hiện ở việc người phạm tội bị Tòa án kết tội bằng
bản án kết tội, hình phạt mà Tòa án quyết định, chịu mang án tích (trừ
trường hợp người phạm tội được miễn hình phạt và các trường hợp khác
không bị coi là có án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự)1.
1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự có các đặc điểm sau:
Một là, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi của việc
thực hiện tội phạm.
Trách nhiệm hình sự là một loại trách nhiệm pháp lý chỉ có thể
được áp dụng đối với người thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là
tội phạm, nghĩa là việc thực hiện hành vi thỏa mãn các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm được quy định trong luật hình sự. Không có việc
thực hiện hành vi bị luật hình sự coi là tội phạm thì không thể có trách
nhiệm hình sự.
Trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự, để quy kết hành vi
nào đó là tội phạm và buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình
sự, cơ quan có thẩm quyền phải dựa trên cơ sở đối chiếu để tìm ra sự
phù hợp giữa dấu hiệu của hành vi đã thực hiện với dấu hiệu của cấu
thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự. Hành vi nguy
hiểm cho xã hội thỏa mãn dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể
được luật hình sự quy định chính là cơ sở của trách nhiệm hình sự.1
Về khái niệm trách nhiệm hình sự, hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau. Xem: Trường
Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, tr.245; Lê Cảm (2000), Các nghiên cứu chuyên khảo về Phần chung Luật
hình sự (tập III), Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.22; Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên, 2001),
Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.25.185
- Giáo trình LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Phần chung)
Theo luật hình sự nước ta, Bộ luật Hình sự là văn bản pháp lý duy nhất
quy định hành vi nào đó là tội phạm. Nếu không được quy định trong
Bộ luật Hình sự thì một hành vi dù nguy hiểm cho xã hội đến đâu cũng
không thể bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó không phải
chịu trách nhiệm hình sự.
Hai là, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi đối với
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự coi là
tội phạm.
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ có thể bị luật
hình sự coi là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự nếu thực
hiện hành vi nguy hiểm đáng kể cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự khi đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng
lực trách nhiệm hình sự và có lỗi (cố ý hoặc vô ý). Trong trường hợp
tội phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm thì từng người
đồng phạm cũng phải chịu trách nhiệm hình sự độc lập. Hình phạt
đối với từng người đồng phạm được quyết định căn cứ vào tính chất
đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người
đồng phạm.
Hành vi nguy hiểm bị coi là tội phạm có thể là hành vi phạm
tội hoàn thành, hành vi chuẩn bị phạm tội (Điều 14 Bộ luật Hình
sự năm 2015), hành vi phạm tội chưa đạt (Điều 15 Bộ luật Hình sự
năm 2015), hành vi phạm tội đơn lẻ của cá nhân hoặc hành vi đồng
phạm (Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Ba là, trách nhiệm hình sự được thể hiện ở bản án kết tội của Tòa
án cũng như hình phạt mà Tòa án quyết định áp dụng đối với người
phạm tội.
Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được
coi là không có tội cho đến khi chứng minh theo trình tự luật định và có
bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Bản án kết tội của186
- CHƯƠNG 11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT
Tòa án có hiệu lực pháp luật là cơ sở pháp lý xác nhận người phạm tội
chính thức “bị coi là có tội”. Đó chính là hậu quả pháp lý bất lợi thể hiện
một trong những nội dung quan trọng của trách nhiệm hình sự mà
người phạm tội phải chịu trước Nhà nước.
Đa số các trường hợp bản án kết tội của Tòa án đối với người
phạm tội đi kèm với việc Tòa án quyết định hình phạt đối với người
đó. Trong trường hợp này, trách nhiệm hình sự của người phạm tội
được thể hiện ở việc bị Tòa án kết tội bằng một bản án kết tội và chịu
hình phạt mà Tòa án quyết định đối với người đó. Tuy nhiên, cũng có
thể có trường hợp bản án kết tội của Tòa án đối với người phạm tội
nhưng không có quyết định hình phạt mà có quyết định miễn hình
phạt. Trong trường hợp này, trách nhiệm hình sự mà người phạm tội
phải chịu chỉ thể hiện ở việc bị Tòa án nhân danh Nhà nước kết tội,
người phạm tội “bị coi là có tội”.
Như vậy, trách nhiệm hình sự có thể có hình phạt và cũng có thể
không có hình phạt. Trong trường hợp bản án kết tội của Tòa án có
kèm theo quyết định miễn hình phạt đối với người phạm tội thì trách
nhiệm hình sự của người phạm tội thể hiện ở việc người phạm tội bị
Tòa án nhân danh Nhà nước kết án bằng bản án kết tội mà không được
thể hiện bằng hình phạt. Trong trường hợp bản án kết tội của Tòa án
có kèm theo quyết định hình phạt thì trách nhiệm hình sự mà một
người phải chịu không chỉ thể hiện ở việc bị kết tội bằng bản án kết
tội mà còn thể hiện ở việc phải chịu hình phạt cụ thể (kể cả hình phạt
chính và hình phạt bổ sung) mà Tòa án quyết định đối với người đó.
Trong trường hợp bản án kết tội có quyết định hình phạt đối với người
phạm tội có hiệu lực pháp luật, thì người phạm tội phải mang án tích,
trừ trường hợp người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là
có án tích theo khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 2015. Án tích
của người bị kết án chỉ được xóa khi có những điều kiện do luật định187
- Giáo trình LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Phần chung)
(việc xóa án tích đối với người bị kết án được thực hiện theo quy định
từ Điều 70 đến Điều 73 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Bốn là, trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà người
phạm tội phải chịu trước Nhà nước, do Tòa án nhân danh Nhà nước áp
dụng, là kết quả của quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và kiểm
tra, đánh giá các tài liệu, chứng cứ tại phiên tòa xét xử theo một trình
tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm trước Nhà nước, do Tòa án
nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng đối với người phạm tội. Việc
xác định các căn cứ để có thể quyết định áp dụng trách nhiệm hình
sự là kết quả của quá trình điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát, Tòa
án). Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nếu xác định có
dấu hiệu tội phạm thì khởi tố vụ án, khi có đủ căn cứ để xác định một
người đã thực hiện tội phạm thì khởi tố bị can, tiến hành điều tra, truy
tố. Căn cứ vào kết quả của quá trình điều tra, truy tố và quá trình xét
xử, tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án sẽ quyết định việc có kết án người
đã bị truy tố hay không. Nếu có đủ cơ sở để buộc một người phải chịu
trách nhiệm hình sự, Tòa án sẽ ra bản án kết tội đối với người phạm tội.
Thời điểm bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật là thời
điểm người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự, chính thức “bị
coi là có tội”. Thông thường, sau khi bản án kết tội của Tòa án có hiệu
lực pháp luật có kèm theo quyết định hình phạt đối với người bị kết
án, người bị kết án sẽ phải chấp hành hình phạt khi có quyết định thi
hành án của cơ quan có thẩm quyền. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp, người bị kết án có thể được miễn chấp hành hình phạt khi có các
điều kiện được quy định tại Điều 62 Bộ luật Hình sự năm 2015. Việc
miễn chấp hành hình phạt không có nghĩa là trách nhiệm hình sự
đối với người bị kết án chấm dứt. Vì án tích của người bị kết án được188
- CHƯƠNG 11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT
miễn chấp hành hình phạt vẫn đang tồn tại. Trách nhiệm hình sự của
người bị kết án mang án tích chỉ chấm dứt khi án tích đối với người
ấy được xóa.
1.2. Cơ sở và điều kiện của trách nhiệm hình sự
1.2.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
Cơ sở của trách nhiệm hình sự là căn cứ mà dựa vào đó các cơ
quan có thẩm quyền có thể buộc một người phải chịu trách nhiệm
hình sự. Một người chỉ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự khi người
đó thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự coi là tội
phạm. Bộ luật Hình sự đã quy định về các tội phạm cụ thể thông qua
việc quy định các điều khoản thể hiện các dấu hiệu pháp lý đặc trưng
của từng loại tội phạm. Tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho
một tội phạm cụ thể được gọi là cấu thành tội phạm.
Cơ sở của trách nhiệm hình sự là việc một người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội, có các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
cụ thể được quy định trong luật hình sự.
Để xác định trách nhiệm hình sự đối với một người đòi hỏi phải
xác định được hành vi mà người đó thực hiện có các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm được quy định trong luật hình sự. Các dấu hiệu của
cấu thành tội phạm bao gồm tổng hợp các dấu hiệu của tội phạm được
quy định ở cả Phần chung và Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự.
Phần chung của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định các dấu hiệu có
tính chất chung của mọi tội phạm như năng lực trách nhiệm hình sự
(thông qua việc quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự tại Điều 12
và về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự tại Điều 21);
về lỗi cố ý phạm tội và vô ý phạm tội (Điều 10 và Điều 11); về chuẩn
bị phạm tội (Điều 14); phạm tội chưa đạt (Điều 15); đồng phạm
(Điều 17)… Phần các tội phạm, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về
các dấu hiệu đặc trưng của từng tội phạm cụ thể. Khi cần xác định một189
- Giáo trình LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Phần chung)
hành vi nào đó có các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định
trong luật hình sự hay không thì phải xem xét hành vi đó có thỏa mãn
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định ở cả Phần
chung và Phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự hay không.
Khoản 1 Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 về cơ sở của trách
nhiệm hình sự quy định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật
Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Theo quy định trên, trách nhiệm hình sự chỉ có thể được áp dụng
đối với người phạm tội, nghĩa là chỉ có thể được áp dụng đối với người
đã thực hiện hành vi có các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm
được quy định trong Bộ luật Hình sự. Không ai phải chịu trách nhiệm
hình sự nếu không thực hiện hành vi hoặc có thực hiện hành vi nhưng
không thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm cụ thể được
Bộ luật Hình sự quy định.
1.2.2. Điều kiện của trách nhiệm hình sự
Điều kiện của trách nhiệm hình sự là tổng hợp các căn cứ cần và
đủ để có thể buộc một người nào đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
Một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các điều
kiện sau đây:
Một là, người phải chịu trách nhiệm hình sự là người thực hiện
hành vi có dấu hiệu của tội phạm và hành vi đó có tính chất nguy hiểm
cho xã hội đáng kể. Do vậy, theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Bộ luật
Hình sự năm 2015 thì: “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm
nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là
tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”.
Hai là, người phải chịu trách nhiệm hình sự là người khi thực
hiện hành vi có năng lực trách nhiệm hình sự.
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành190
- CHƯƠNG 11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT
vi nguy hiểm cho xã hội khi đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có
khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
của mình và có khả năng điều khiển được hành vi đó.
Ba là, người phải chịu trách nhiệm hình sự là người có lỗi (cố ý
hoặc vô ý) khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Lỗi là thái độ tâm lý của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do người đó thực hiện và
đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội do hành vi đó gây ra được thể
hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Chỉ khi chứng minh được lỗi của người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội mới có thể truy cứu, áp dụng trách nhiệm hình sự đối
với người đó. Người thực hiện hành vi không có lỗi thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội do sự kiện bất ngờ; thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng hoặc
thực hiện hành vi trong tình thế cấp thiết…
Bốn là, người phải chịu trách nhiệm hình sự là người thực hiện
tội phạm không thuộc trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự.
Bộ luật Hình sự năm 2015 đã quy định về các trường hợp được
miễn trách nhiệm hình sự (các điều 16, 29, khoản 2 Điều 91…). Miễn
trách nhiệm hình sự là miễn hậu quả pháp lý bất lợi cho người phạm
tội khi có các căn cứ do luật định. Người được miễn trách nhiệm hình
sự thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, không phải chịu sự kết tội
bằng bản án kết tội của Tòa án.
Năm là, một người chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự và
phải chịu trách nhiệm hình sự nếu trong khoảng thời gian truy cứu và
áp dụng trách nhiệm hình sự vẫn còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự. Nếu tội phạm mà một người thực hiện đã quá thời hạn để tính
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì người phạm tội sẽ không
phải chịu trách nhiệm hình sự.191
- Giáo trình LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Phần chung)
1.3. Miễn trách nhiệm hình sự
1.3.1. Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự
Khái niệm miễn trách nhiệm hình sự xuất phát từ khái niệm
trách nhiệm hình sự. Như đã đề cập ở phần trên, trách nhiệm hình sự
là hậu quả pháp lý bất lợi mà người phạm tội phải chịu trước Nhà nước
do việc người đó thực hiện tội phạm và được thể hiện ở bản án kết tội
của Tòa án có hiệu lực pháp luật cũng như hình phạt mà Tòa án quyết
định đối với người phạm tội. Trên cơ sở đó, có thể rút ra khái niệm
miễn trách nhiệm hình sự như sau:
Miễn trách nhiệm hình sự là việc miễn hậu quả pháp lý bất lợi của
việc phạm tội, thể hiện ở chỗ người phạm tội không phải chịu sự kết tội
của Tòa án, không bị coi là có tội.
Miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thể áp dụng đối với người phạm
tội, nhưng có căn cứ để không buộc người đó phải chịu trách nhiệm
hình sự theo quy định của luật hình sự. Người được miễn trách nhiệm
hình sự không phải chịu hậu quả pháp lý bất lợi trước Nhà nước về việc
thực hiện hành vi phạm tội của mình, không phải chịu sự kết tội của
Nhà nước mà Tòa án là đại diện, thông qua việc áp dụng pháp luật hình
sự, ra bản án kết tội người phạm tội.
Cơ sở của miễn trách nhiệm hình sự xuất phát từ cơ sở của trách
nhiệm hình sự, nghĩa là việc thực hiện hành vi có các dấu hiệu của cấu
thành tội phạm được luật hình sự quy định và thuộc trường hợp được
miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của luật hình sự.
Miễn trách nhiệm hình sự hoàn toàn khác với trường hợp không
phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của một người không cấu
thành tội phạm. Miễn trách nhiệm hình sự chỉ có thể áp dụng đối với
người phạm tội, nghĩa là chỉ áp dụng đối với người thực hiện hành vi
có các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm được luật hình sự quy
định. Nếu hành vi của một người không có các dấu hiệu của cấu thành192
- CHƯƠNG 11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT
tội phạm được luật hình sự quy định thì không thể nói đến việc miễn
trách nhiệm hình sự đối với người đó.
Nếu việc thực hiện trách nhiệm hình sự chỉ có thể do Tòa án
nhân danh Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội, thì việc miễn
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không phải bao giờ cũng
cần có một quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ: Vì
đã xác định được rõ ràng có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự đối
với một người phạm tội nào đó nên các cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng không khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Trong trường hợp
đã có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với người thực hiện
hành vi mà luật hình sự coi là tội phạm, thì tùy theo giai đoạn tố tụng,
việc miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội có thể được
thực hiện bằng các quyết định đình chỉ điều tra đối với bị can (trong
giai đoạn điều tra) hoặc đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo (trong giai
đoạn truy tố hoặc chuẩn bị xét xử) hoặc quyết định miễn trách nhiệm
hình sự trong bản án (không kết tội) của Tòa án.
1.3.2. Các căn cứ miễn trách nhiệm hình sự
Luật hình sự Việt Nam đã quy định những căn cứ miễn trách
nhiệm hình sự tại các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 2015
(Điều 16, Điều 29, khoản 2 Điều 91, khoản 4 Điều 110, khoản 7
Điều 364, khoản 6 Điều 365). Cụ thể như sau:
– Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự về tội định phạm (Điều 16 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Đây là trường hợp người thực hiện ý định phạm tội đã tự nguyện
chấm dứt việc thực hiện tội phạm trước khi tội phạm hoàn thành.
Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thì được miễn trách
nhiệm hình sự về tội phạm mà người đó định thực hiện.
– Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự nếu khi tiến
hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp193
- Giáo trình LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Phần chung)
luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa
(điểm a khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Đây là trường hợp khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử vụ
án đã có những chính sách, pháp luật mới được ban hành hoặc được
sửa đổi, bổ sung làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho
xã hội nữa, do vậy không cần thiết phải áp dụng trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội. Ví dụ: Sự thay đổi các chính sách, pháp luật
về thuế, tài chính, kinh doanh, thương mại, bảo hiểm, y tế… làm cho
hành vi trước đây mà một người đã thực hiện bị coi là tội phạm thì vào
thời điểm tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, hành vi bị điều tra, truy tố,
xét xử không còn bị coi là tội phạm nữa.
– Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết
định đại xá (điểm b khoản 1 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Đại xá là một biện pháp khoan hồng đặc biệt của Nhà nước, do
Quốc hội quyết định1 mà nội dung của nó là tha hoàn toàn đối với
hàng loạt người phạm tội đã phạm một hoặc một số loại tội phạm nhất
định. Văn bản đại xá thường được ban hành khi có sự kiện chính trị
đặc biệt quan trọng của đất nước và có hiệu lực đối với những tội phạm
xảy ra trước và khi văn bản đại xá đó được ban hành. Tội phạm đã được
đại xá là căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.
– Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu khi
tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà
người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm a khoản 2
Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Đây là trường hợp do sự chuyển biến của tình hình chính trị,
kinh tế hoặc xã hội mà tại thời điểm điều tra, truy tố, xét xử vụ án thì
người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa, do vậy không
cần thiết buộc người đó phải chịu trách nhiệm hình sự.1
Quy định tại khoản 11 Điều 70 Hiến pháp năm 2013.194
- CHƯƠNG 11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT
– Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu khi
tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người đó mắc bệnh hiểm nghèo
dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm b
khoản 2 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Đây là trường hợp vào thời điểm tiến hành điều tra, truy tố,
xét xử vụ án thì người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo và bệnh hiểm
nghèo đó phải dẫn đến việc người đó không còn khả năng tiếp tục thực
hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nữa. Nếu người phạm tội mắc
bệnh hiểm nghèo nhưng vẫn còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội,
thì người đó vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Theo hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, người mắc bệnh
hiểm nghèo là trường hợp người đó đang bị bệnh nguy hiểm đến tính
mạng, khó có phương thức chữa trị, như: Ung thư giai đoạn cuối, xơ
gan cổ trướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ 3, suy
thận độ 4 trở lên; HIV giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ hội
không có khả năng tự chăm sóc bản thân và có nguy cơ tử vong cao1.
– Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu
trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ
sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm,
cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công
lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận
(điểm c khoản 2 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Đây là trường hợp người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm
hình sự khi có đủ hai điều kiện sau đây:
Một là, người phạm tội phải tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ
chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người1
Xem khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số 09/2012/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-
VKSNDTC ngày 16/8/2012 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn việc miễn, giảm thời hạn chấp hành án cải tạo
không giam giữ và miễn chấp hành thời hạn cấm cư trú, quản chế còn lại.195
- Giáo trình LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Phần chung)
phạm tội bị phát hiện1 về các tình tiết liên quan đến hành vi phạm tội
mà người đó thực hiện và việc khai báo đó là thành khẩn. Việc khai báo
của người phạm tội góp phần giúp cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng thuận lợi, dễ dàng hơn trong việc phát hiện, điều tra xác định sự
thật của vụ án và thể hiện sự ăn năn, hối cải của người phạm tội trong
việc cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm.
Hai là, người phạm tội phải là người lập công lớn hoặc có cống
hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Đây là trường hợp
người phạm tội đã có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình
thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong thiên tai, hỏa hoạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng
kiến có giá trị hoặc thành tích xuất sắc đột xuất khác được các cơ quan
có thẩm quyền xác nhận2.
– Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu sau
khi thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm
trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc
tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại
hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp
pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm
hình sự (khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015).
– Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp
sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn
hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 Bộ luật
Hình sự năm 2015, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp
dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục (các biện pháp giám1
Xem điểm h khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
2
Xem điểm a tiểu mục 2.1 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành
hình phạt.196
- CHƯƠNG 11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT
sát, giáo dục áp dụng trong trường hợp miễn trách nhiệm hình sự đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội bao gồm: Khiển trách, hòa giải tại
cộng đồng, giáo dục tại xã, phường, thị trấn):
+ Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng,
phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các Điều 134, 141,
171, 248, 249, 250, 251 và Điều 252 Bộ luật Hình sự năm 2015;
+ Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm
trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 Bộ luật Hình sự năm 2015, trừ tội
phạm quy định tại các Điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171,
248, 249, 250, 251 và Điều 252 Bộ luật Hình sự năm 2015;
+ Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng
kể trong vụ án (khoản 2 Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015).
– Người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm
vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, thì được miễn trách nhiệm hình sự về tội gián điệp
(khoản 4 Điều 110 Bộ luật Hình sự năm 2015).
– Người đưa hối lộ, người môi giới hối lộ tuy không bị ép buộc
nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được
miễn trách nhiệm hình sự (khoản 7 Điều 364; khoản 6 Điều 365
Bộ luật Hình sự năm 2015).
1.4. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
1.4.1. Khái niệm thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Vấn đề thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự xuất phát từ yêu
cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Về nguyên tắc, mọi
hành vi phạm tội phải được phát hiện và xử lý kịp thời, nhanh chóng,
công minh, theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tế có
trường hợp tội phạm xảy ra, người phạm tội không trốn tránh nhưng
các cơ quan có thẩm quyền không biết, nên trong cả một thời gian dài197
- Giáo trình LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Phần chung)
đã không thực hiện các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, buộc
người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Đến khi phát hiện ra tội
phạm thì người phạm tội đã tự hối cải, làm ăn lương thiện, trong thời
gian dài họ không phạm tội mới. Trong những trường hợp đó, việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội không còn cần thiết,
không đạt được mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung.
Xuất phát từ lý do đó, luật hình sự Việt Nam đã quy định thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự tại Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật
Hình sự quy định cho phép cơ quan có thẩm quyền được tiến hành các
hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, khi hết
thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Việc quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự trong luật
hình sự có ý nghĩa pháp lý, chính trị và xã hội. Về nguyên tắc, người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự coi là tội phạm
phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng trong các trường hợp quá thời
hạn do Bộ luật Hình sự quy định để có thể truy cứu trách nhiệm hình
sự (không còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự) người phạm tội
sẽ không thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
1.4.2. Điều kiện áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được áp dụng khi có các
điều kiện sau đây:
Một là, về thời hạn để tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự. Theo khoản 2 Điều 27 Bộ luật Hình sự năm 2015, thời hiệu truy
cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:
– 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
– 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
– 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
– 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.198
- CHƯƠNG 11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT
Hai là, trong thời hạn để tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự, người phạm tội không phạm tội mới mà Bộ luật Hình sự
quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 01
năm tù.
Nếu trong thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự, người phạm tội
phạm tội mới mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung
hình phạt đối với tội ấy là trên 01 năm tù, thì thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi
phạm tội mới.
– Ba là, trong thời hạn để tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm
hình sự, người phạm tội không cố tình trốn tránh hoặc đã trốn tránh
nhưng không có lệnh truy nã do lỗi của cơ quan có thẩm quyền.
Trong thời hạn để tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự,
người phạm tội không cố tình trốn tránh là trường hợp trong thời
hạn để tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, người phạm tội
không đi khỏi địa phương và che giấu nơi ở mới của mình hoặc không
có hành vi khác che giấu thông tin về lý lịch, nhân dạng của mình để
tránh sự phát hiện của cơ quan có thẩm quyền.
Trong thời hạn để tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự,
người phạm tội đã trốn tránh nhưng không có lệnh truy nã của cơ
quan có thẩm quyền là trường hợp trong thời hạn để tính thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự, người phạm tội đã trốn khỏi địa phương
và che giấu nơi ở mới của mình hoặc có hành vi khác che giấu thông
tin về lý lịch, nhân dạng của mình để tránh sự phát hiện của cơ quan có
thẩm quyền nhưng cơ quan có thẩm quyền đã có lỗi trong việc không
ra lệnh truy nã. Trường hợp này cũng được áp dụng thời hiệu truy cứu
trách nhiệm hình sự.
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội
phạm được thực hiện. Do cấu trúc đặc biệt của một số hành vi khách199
- Giáo trình LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Phần chung)
quan của một số tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự, thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự nước ta thừa nhận, đối với tội kéo dài
(ví dụ, tội tàng trữ trái phép chất ma túy – Điều 249 Bộ luật Hình sự
năm 2015), thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ
ngày hành vi phạm tội của người phạm tội chấm dứt. Đối với tội liên
tục (ví dụ, tội đầu cơ – Điều 196 Bộ luật Hình sự năm 2015) thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày hành vi phạm tội của
người phạm tội chấm dứt.
Khi đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan có
thẩm quyền khởi tố không được khởi tố vụ án, khởi tố bị can để tiến
hành điều tra, truy tố người phạm tội.
Nếu vụ án đã được khởi tố, điều tra, truy tố mới phát hiện được
đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải ra quyết định đình chỉ điều tra đối với bị
can (trong giai đoạn điều tra) hoặc đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo
(trong giai đoạn truy tố hoặc xét xử).
Nếu trong thời hạn để tính thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự, người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật Hình sự quy định mức
cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hạn
đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ
ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.
Nếu trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, người phạm
tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã thì thời hiệu được tính lại
từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.
1.4.3. Những trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự
Xuất phát từ yêu cầu đấu tranh chống một số loại tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng và yêu cầu thực hiện các điều ước quốc tế mà
Việt Nam tham gia, Điều 28 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định không200
- CHƯƠNG 11. TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ VÀ HÌNH PHẠT
áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm
phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật Hình
sự năm 2015 (từ Điều 108 đến Điều 121); các tội phá hoại hòa bình,
chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI
của Bộ luật Hình sự năm 2015 (từ Điều 421 đến Điều 425); tội tham ô
tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 Bộ
luật Hình sự năm 2015; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại
khoản 3 và khoản 4 Điều 354 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Đối với các tội phạm thuộc trường hợp không áp dụng thời hiệu
truy cứu trách nhiệm hình sự trên đây, nếu phát hiện được tội phạm đã
thực hiện ở bất cứ thời gian nào nhưng chưa được khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều phải tiến
hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người phạm
tội mà không bị ràng buộc bởi thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH CỦA HÌNH PHẠT
2.1. Khái niệm hình phạt
Có thể đưa ra khái niệm hình phạt như sau:
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước
được quy định trong luật hình sự, thể hiện sự trừng phạt của Nhà nước
đối với người, pháp nhân thương mại phạm tội, do Tòa án quyết định
áp dụng nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích nhất định của người,
pháp nhân thương mại phạm tội, giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật
và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; đồng thời, giáo
dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa
và đấu tranh chống tội phạm.
Từ quy định trên, có thể rút ra những đặc điểm của hình phạt
như sau:
– Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà
nước, tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương
mại phạm tội.201
- Giáo trình LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM (Phần chung)
Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước thì hình
phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Hình phạt được coi như
một công cụ hữu hiệu để phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm,
bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền con người, các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tính nghiêm khắc nhất của hình phạt thể hiện ở chỗ hình phạt
luôn gắn với bản án kết tội của Tòa án, có nội dung tước bỏ hoặc bị
hạn chế những quyền, lợi ích thiết yếu của người hoặc của pháp nhân
thương mại phạm tội.
Người phạm tội bị Tòa án quyết định áp dụng hình phạt bị tước
bỏ hoặc hạn chế các quyền, lợi ích nhất định như tước bỏ quyền sống,
tước bỏ hoặc hạn chế quyền tự do về thân thể; quyền tự do đi lại; quyền
tự do cư trú; các quyền về chính trị; các quyền và lợi ích về kinh tế…
Hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội bao
gồm: tước bỏ hoặc hạn chế các quyền, lợi ích cơ bản như quyền được
tham gia hoạt động kinh doanh, thương mại; quyền huy động vốn; các
quyền và lợi ích kinh tế khác.
Người phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phạm tội bị Tòa án
quyết định áp dụng hình phạt luôn đi kèm với bản án kết tội của Tòa
án và người, pháp nhân thương mại bị kết án, chịu hình phạt thường
phải mang án tích (trừ trường hợp người phạm tội bị kết án do lỗi vô ý
về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng theo quy định tại
khoản 2 Điều 69 Bộ luật Hình sự năm 2015). Án tích của người, pháp
nhân thương mại phạm tội bị kết án chỉ được xóa khi có các điều kiện
do luật định.
– Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc được quy định
trong luật hình sự.
Các loại hình phạt được quy định ở cả Phần chung và Phần
các tội phạm của Bộ luật Hình sự. Phần chung của Bộ luật Hình sự202