Tài LiệuTài Liệu Về Kinh Tế Quản Lý

[Download] Giáo trình Kinh tế vĩ mô – Tải về File Docx, PDF

Giáo trình Kinh tế vĩ mô

Giáo trình Kinh tế vĩ mô
Nội dung Text: Giáo trình Kinh tế vĩ mô


Giáo trình Kinh tế vĩ mô giúp người học, nhận biết được các kiến thức cơ bản về kinh tế học nói chung và kinh tế vĩ mô nói riêng; Mô tả một cách khái quát các hoạt động của các tác nhân trong nền kinh tế; vận dụng được các kiến thức cơ bản về kinh tế học vĩ mô, cơ chế vận hành của một nền kinh tế. Mời các bạn cùng tham khảo.

Bạn đang xem: [Download] Giáo trình Kinh tế vĩ mô – Tải về File Docx, PDF

*Ghi chú: Có 2 link để tải tài liệu, Nếu Link này không download được, các bạn kéo xuống dưới cùng, dùng link 2 để tải tài liệu về máy nhé!
Download tài liệu Giáo trình Kinh tế vĩ mô File Docx, PDF về máy

Nội dung

Giáo trình Kinh tế vĩ mô

Mô tả tài liệu

Nội dung Text: Giáo trình Kinh tế vĩ mô

  1. 1

    CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ HỌC VÀ KINH TẾ VĨ MÔ
    Giới thiệu:

    Chương này cung cấp những kiến thức cơ bản về một số khái niệm, quy luật,
    công cụ phân tích quan trọng của kinh tế học hiện đại, nhằm giúp cho sinh viên có
    được kiến thức ban đầu về môn học như: Kinh tế học là gì? các đặc trưng, đối tượng
    nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu của kinh tế học, sự khác biệt giữa kinh tế vĩ
    mô và kinh tế vi mô, sự khác biệt trong phương pháp nghiên cứu của kinh tế học với
    các khoa học kinh tế khác. Cách thức tổ chức của một nền kinh tế hỗn hợp, các chức
    năng cơ bản của một nền kinh tế trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế như sản xuất
    cái gì?; sản xuất như thế nào?; sản xuất cho ai? Các tác nhân trong nền kinh tế hỗn
    hợp, vai trò của các tác nhân trong nền kinh tế và sự ảnh hưởng qua lại giữa chúng
    trong nền kinh tế hỗn hợp. Trong chương này cũng nhằm trang bị cho sinh viên một
    số khái niệm cơ bản của kinh tế học như “các yếu tố sản xuất”, “giới hạn khả năng
    sản xuất”, “chi phí cơ hội”. Một số quy luật kinh tế như “quy luật chi phí tương đối
    ngày càng tăng”; “quy luật thu nhập có xu hướng giảm dần”;…Trang bị cho sinh viên
    phương pháp phân tích cung – cầu hạt nhân của phân tích kinh tế. Việc xác định giá
    cả, sản lượng thông qua cung, cầu; xác định mức sản lượng và giá cả cân bằng; các
    nhân tố ảnh hưởng đến cung, cầu, sự thay đổi điểm cân bằng khi cung, cầu thay đổi.

    Mục tiêu:
    – Nhận biết được các kiến thức cơ bản về kinh tế học nói chung và kinh tế vĩ
    mô nói riêng;
    – Mô tả một cách khái quát các hoạt động của các tác nhân trong nền kinh tế,
    – Vận dụng được các kiến thức cơ bản về kinh tế học vĩ mô, cơ chế vận hành
    của một nền kinh tế;
    – Nghiêm túc khi nghiên cứu.
    Nội dung chính:
    1. Khái niệm về kinh tế học và những đặc trưng của kinh tế học
    1.1. Khái niệm về kinh tế học
    1.1.1. Kinh tế học:
    Kinh tế học là môn khoa học xã hội nghiên cứu cách chọn lựa của nền kinh tế
    trong việc sử dụng nguồn tài nguyên có giới hạn để sản xuất các loại sản phẩm nhằm
    thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của con người. Kinh tế học là môn học nghiên
    cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn tài nguyên khan hiếm để sản xuất ra
    những hàng hoá cần thiết và phân phối cho các thành viên trong xã hội. Kinh tế học
    là môn khoa học nghiên cứu hoạt động của con người trong sản xuất và tiêu thụ hàng
    hoá. Kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu việc lựa chọn cách sử dụng hợp lý nhất
    các nguồn lực để sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ nhằm thoả mãn cao nhất nhu cầu

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  2. 2

    cho mọi thành viên trong xã hội.

    Kinh tế học là môn khoa học ra đời cách đây hơn hai thế kỷ. Từ đó đến nay kinh
    tế học đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, do đó cũng đã xuất hiện khá nhiều các
    định nghĩa về kinh tế học. Sau đây xin trình bày 3 khái niệm về kinh tế học được
    nhiều nhà kinh tế hiện nay sử dụng.

    Kinh tế học có quan hệ chặt chẽ với nhiều môn khoa học khác như: triết học,
    kinh tế chính trị học, sử học, xã hội học,… và đặc biệt có liên quan chặt chẽ với toán
    học và thống kê học. Kinh tế học được chia làm 2 phân ngành lớn là kinh tế học vi
    mô và kinh tế học vĩ mô

    1.1.2. Kinh tế học vi mô:
    Kinh tế học vi mô nghiên cứu sự hoạt động của nền kinh tế bằng cách tách biệt
    từng bộ phận của nền kinh tế: nghiên cứu hành vi ứng xử của các cá nhân về các
    hàng hóa cụ thể trên từng loại thị trường trong mối quan hệ với các tác nhân gây ra
    bởi hoàn cảnh chung.

    Kinh tế vĩ mô nghiên cứu hoạt động của toàn bộ tổng thể rộng lớn của toàn bộ
    nền kinh tế như: Tăng trưởng kinh tế, sự biến động của giá cả (lạm phát), việc làm
    của cả quốc gia (thất nghiệp), cán cân thanh toán và tỷ giá hối đoái,…

    Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam năm 2012 tăng trưởng 5,03 %, lạm phát 6,81%,
    cán cân thương mại cân bằng,… Đây là tín hiệu phản ánh nền kinh tế của Việt Nam
    đang trên đà phát triển,…”

    1.1.3. Kinh tế học vĩ mô:

    Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự hoạt động của toàn bộ nền kinh tế như một thể
    thống nhất. Nghiên cứu sự tương tác giữa các cấu khối chung trong nền kinh tế có thể
    điều khiển được.

    Kinh tế vi mô nghiên cứu sự hoạt động của các các tế bào kinh tế trong nền kinh
    tế là các doanh nghiệp, hộ gia đình, nghiên cứu những yếu tố quyết định giá cả, số
    lượng sản phẩm,… trong các thị trường riêng lẻ.

    Ví dụ: Trên thị trường Hà Nội, vào dịp tết nguyên đán 2012, hàng thuỷ sản được
    tiêu thụ mạnh, do đó giá có thể tăng nhẹ

    Tuỳ theo cách thức sử dụng, kinh tế học được chia thành hai dạng kinh tế học là
    kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc. Kinh tế học thực chứng là để trả lời

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  3. 3

    câu hỏi: Là bao nhiêu? là gì? Như thế nào?; còn kinh tế học chuẩn tắc là để trả lời câu
    hỏi: Nên làm cái gì?, Làm như thế nào?… Mỗi vấn đề kinh tế cụ thể đều thường được
    tiến hành từ kinh tế học thực chứng rồi chuyển sang kinh tế học chuẩn tắc.

    Kinh tế học thực chứng là việc mô tả và phân tích sự kiện, những mối quan hệ
    trong nền kinh tế .Ví dụ: hiện nay, tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu? nếu tăng trưởng kinh
    tế là 8% thì tỷ lệ lạm phát sẽ thay đổi thế nào?

    1.1.4. Kinh tế học thực chứng:
    Kinh tế học thực chứng nghiên cứu những lý giải khoa học về cách vận hành
    của nền kinh tế một cách khách quan, có số liệu cụ thể hoặc có sự suy lý logic từ
    những vấn đề cụ thể. Kinh tế học thực chứng là việc mô tả và phân tích sự kiện,
    những mối quan hệ trong nền kinh tế .Ví dụ: hiện nay, tỷ lệ lạm phát là bao nhiêu?
    nếu tăng trưởng kinh tế là 8% thì tỷ lệ lạm phát sẽ thay đổi thế nào?
    1.1.5. Kinh tế học chuẩn tắc:
    Kinh tế học chuẩn tắc nghiên cứu đưa ra những khuyến nghị dựa trên những
    nhận định mang tính chất cá nhân, thường mang tính chủ quan. Kinh tế học chuẩn tắc
    đề cập đến cách thức, đạo lý được giải quyết bằng sự lựa chọn. Ví dụ: Tỷ lệ lạm phát
    đến mức nào thì có thể chấp nhận được? Có nên tăng tỷ lệ lãi suất ngân hàng
    không?…
    1.1.6. Mối quan hệ:
    Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô nghiên cứu nền kinh tế ở những góc độ
    khác nhau, tuy nhiên giữa chúng có mối quan hệ không thể tách rời. Kinh tế vi mô
    nghiên cứu những tế bào, những bộ phận, còn kinh tế vĩ mô nghiên cứu tổng thể nền
    kinh tế, được cấu thành từ những tế bào, những bộ phận ấy.
    Trong thực tiễn kết quả kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào các hành vi của kinh tế vi
    mô, kinh tế quốc dân phụ thuộc vào sự phát triển của các doanh nghiệp, của các tế
    bào kinh tế. Kinh tế vĩ mô tạo hành lang, tạo môi trường, tạo điều kiện cho kinh tế vi
    mô phát triển.
    1.2. Những đặc trưng của kinh tế học

    Kinh tế học nghiên cứu sự khan hiếm các nguồn lực một cách tương đối với nhu
    cầu kinh tế xã hội. Đây là đặc trưng kinh tế cơ bản gắn liền với tiền đề nghiên cứu và
    phát triển của môn kinh tế học. Không thể sản xuất một loại hàng hoá nào đó để thoả
    mãn đầy đủ mọi nhu cầu của con người được.Vì nhu cầu thì đa dạng, còn nguồn lực
    thì hữu hạn do đó cần phải cân đối, lựa chọn. Tính hợp lý của kinh tế học được thể
    hiện ở chỗ, khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế nào đó, cần phải dựa trên
    các giả thiết hợp lý nhất định và diễn biến của sự kiện kinh tế này. Tuy nhiên, cần lưu

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  4. 4

    ý rằng tính chất hợp lý chỉ có tính chất tương đối vì nó phụ thuộc vào điều kiện môi
    trường của sự kiện kinh tế.

    Ví dụ 1: Muốn phân tích hành vi người tiêu dùng muốn mua thứ gì? số lượng là
    bao nhiêu? thì kinh tế học giả định họ tìm cách mua được nhiều hàng hoá dịch vụ
    nhất trong số thu nhập hạn chế của mình.

    Ví dụ 2: Để phân tích xem doanh nghiệp sẽ sản xuất cái gì, bao nhiêu? bằng
    cách nào? có thể giả định rằng doanh nghiệp sẽ tìm cách tối đa hoá lợi nhuận trong
    giới hạn nguồn lực của doanh nghiệp.

    Kinh tế học là một bộ môn nghiên cứu mặt lượng. Với đặc trưng này kinh tế học
    thể hiện kết quả nghiên cứu kinh tế bằng các con số có tầm quan trọng đặc biệt. Khi
    phân tích kết quả của các hoạt động chỉ nhận định nó tăng lên hay giảm đi thì chưa
    đủ mà phải thấy được sự biến đổi của nó như thế nào là bao nhiêu?

    Ví dụ: Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp A năm 2012 là khả quan, chưa đủ,
    chưa thấy được điều gì. Mà khả quan như thế nào? phải được lượng hoá thông qua
    các chi tiêu kinh tế như: Doanh thu tăng 20% so với năm 2011 với mức tăng 400 tỷ
    đồng; lợi nhuận tăng 22% so với năm 2011, mức tăng tăng là 150 tỷ đồng,…

    Tính toàn diện và tính tổng hợp. Đặc trưng này của kinh tế học là khi xem xét
    các hoạt động và sự kiện kinh tế phải đặt nó trong mối liên hệ với các hoạt động, sự
    kiện kinh tế khác trên phương diện của một nền kinh tế thậm chí có những sự kiện
    phải đạt trong mối quan hệ quốc tế.

    Ví dụ: “Trong giai đoạn 2005- 2010 nền kinh tế Việt Nam có mức tăng trương
    cao ổn định”. Để có cơ sở của nhận định này nhà nghiên cứu phải có số liệu lý giải,
    chứng minh điều đó là tốc độ tăng trường bình quân hàng năm của Việt Nam là 7%,
    lạm phát từ 6-8%/ năm,… và tốc độ tăng trưởng của các nước khác trong khu vực và
    trên thế giới.

    Kết quả nghiên cứu của kinh tế học chỉ xác định được ở mức trung bình. Vì các
    kết quả này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau ảnh hưởng tới chỉ tiêu kinh
    tế nghiên cứu, trong đó có rất nhiều yếu tố chỉ có thể xác định được xu hướng ảnh
    hưởng mà không thể xác định được mức độ ảnh hưởng

    2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu môn học
    2.1. Đối tượng nghiên cứu của kinh tế học vĩ mô
    Kinh tế học vĩ mô nghiên cứu sự vận động và những mối quan hệ kinh tế chủ

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  5. 5

    yếu của một đất nước trên bình diện toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Kinh tế học vĩ mô
    cung cấp những kiến thức và công cụ phân tích kinh tế giúp mỗi quốc gia lựa chọn
    những vấn đề kinh tế xã hội cơ bản như: tăng trưởng kinh tế, lạm phát, thất nghiệp,
    xuất nhập khẩu hàng hoá và tư bản, sự phân phối nguồn lực và phân phối thu nhập
    giữa các thành viên trong xã hội.
    Trong khi phân tích các hiện tượng và mối quan hệ kinh tế quốc dân, kinh tế học
    vĩ mô sử dụng chủ yếu phương pháp phân tích cân bằng tổng hợp, do Walras Léon
    (1834 – 1910) phát triển từ năm 1874. Ngoài ra kinh tế học vĩ mô cũng sử dụng
    những phương pháp nghiên cứu phổ biến như: Tư duy trừu tượng, phân tích thống kê
    số lớn, mô hình hóa kinh tế.
    2.2. Phương pháp nghiên cứu kinh tế học

    Có thể khái quát phương pháp luận nghiên cứu của kinh tế học thông qua 4 giai
    đoạn như sau:

    (1). Khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế các nhà kinh tế thường dùng phương
    pháp quan sát. Vì các hiện tượng kinh tế hết sức phức tạp, thường xuyên biến động,
    chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Các quan hệ kinh tế
    rất vô hình, mà chung ta chỉ có thể suy đoán thông qua các biểu hiện bên ngoài thị
    trường của nó. Ví dụ: Muốn nghiên cứu về lạm phát của thời kỳ nào đó, thì phải quan
    sát sự thay đổi giá cả của tất các hàng hoá đang được giao dịch trên thị trường của
    thời kỳ đó.

    (2). Thu thập các số liệu phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu. Ví dụ: Muốn biết
    lạm phát hiện nay là bao nhiêu, đã phải là nguy cơ chưa thì cần phải có số liệu, căn
    cứ ban đầu để phân tích. Số liệu để tiến hành nghiên cứu lạm phát là số liệu về nền
    kinh tế tăng trưởng hay suy thoái, mức giá cả chung của các hàng hoá và dịch vụ
    trong nền kinh tế, …

    (3). Tiến hành phân tích với các phương pháp phân tích thích hợp. Mỗi một sự
    kiện kinh tế, mỗi một chỉ tiêu kinh tế sẽ có cách phân tích khác nhau, có thể dùng
    phương pháp phân tích này hay phương pháp phân tích khác, hoặc kết hợp của một
    số phương pháp phân tích.

    (4). Kinh tế học ngoài những phương pháp của các khoa học kinh tế nói chung,
    thì kinh tế học sử dụng các phương pháp pháp phân tích đặc thù. Đó là những
    phương pháp trừu tượng hoá, bóc tách các nhân tố không định nghiên cứu (cố định
    các nhân tố này) để xem xét các mối quan hệ kinh tế giữa các biến số cơ bản liên
    quan trực tiếp tới sự kiện nghiên cứu. Ví dụ như là phương pháp thông kê, mô hình
    toán, kinh tế lượng, phương pháp cân bằng tổng thể và cân bằng bộ phận,…

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  6. 6

    Rút ra các kết luận đối chiếu với thực tế, phát hiện ra điểm bất hợp lý, đề ra các
    giả thiết mới rồi lại kiểm nghiệm bằng thực tế. Quá trình này lặp đi lắp lại tới khi nào
    kết quả rút ra sát thực với thực tế, khi đó quá trình nghiên cứu mới kết thúc.

    3. Tổ chức kinh tế của một nền kinh tế hỗn hợp
    3.1. Ba chức năng cơ bản của một nền kinh tế

    Tất cả các nền kinh tế quốc dân, trong mọi giai đoạn phát triển đều phải thực
    hiện ba chức năng cơ bản sau: Sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ nào? với số
    lượng bao nhiêu? Và sản xuất cho ai?

    Cơ sở của chức năng này là sự khan hiếm các nguồn lực so với nhu cầu của xã
    hội. Nhiệm vụ chủ yếu mà của bất kỳ nền kinh tế nào cũng cần phải giải quyết là
    giảm đến mức tối thiểu sự lãng phí trong việc sản xuất ra những sản phẩm không cần
    thiết, và tăng cường đến mức tối đa những sản phẩm cần thiết.

    Các hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra như thế nào. Việc giải quyết đúng đắn
    vấn đề này thông thường đồng nghĩa với việc sử dụng số lượng đầu vào ít nhất để sản
    xuất ra số lượng sản phẩm đầu ra nhất định.

    Hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra cho ai? hay sản phẩm quốc dân được
    phân phối thế nào cho các thành viên trong xã hội.

    Ba vấn đề nêu trên là những chức năng năng mà bất kỳ nền kinh tế nào cũng
    phải thực hiện, bất kể hình thức hay trình độ phát triển của nó như thế nào. Tất cả các
    chức năng này đều mạng tính lựa chọn, vì các nguồn lực để sản xuất ra sản phẩm đều
    khan hiếm. Cơ sở cho sự lựa chọn này là:

    Tồn tại các cách sử dụng khác nhau các nguồn lực trong việc sản xuất ra các sản
    phẩm khác nhau. Ví dụ: Sản xuất sản phẩm dệt may cần đầu vào là (lao động ngành
    dệt may, máy may, vải, sợi,…); còn sản xuất ô tô cần (lao động ngành cơ khí chế tạo,
    thép,…).Tồn tại các phương pháp khác nhau để sản xuất ra sản phẩm cụ thể. Ví dụ
    cũng là may mặc nhưng phương pháp thủ công khác với tự động hoá. Tồn tại các
    phương pháp khác nhau để phân phối hàng hoá và thu nhập cho các thành viên trong
    xã hội. Ví dụ: Tham gia sản xuất ra sản phẩm, người lao động nhận được tiền công
    tiền lương; doanh nghiệp nhận được lợi nhuận, Nhà nước thu được các khoản thuế.
    Các thành viên trong xã hội nhân được bao nhiêu là do cơ chế phân phối ở mỗi thời
    kỳ, mỗi quốc gia.

    3.2. Tổ chức kinh tế của nền kinh tế hỗn hợp

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  7. 7

    Những cách thức để giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản trên trong một nước cụ
    thể sẽ tuỳ thuộc vào lịch sử, hệ tư tưởng, và chính sách kinh tế cuả Quốc gia này. Các
    hệ thống kinh tế khác nhau có những cách tổ chức kinh tế khác nhau để thực hiện ba
    chức năng cơ bản của nền kinh tế. Lịch sử phát triển của loài người cho thấy có các
    kiểu tổ chức sau:

    Nền kinh tế tập quán truyền thống: kểu tổ chức này tồn tại dưới thời công xã
    nguyên thuỷ. Trong xã hội này, các vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất cái gì? sản xuất
    như thế nào? phân phối cho ai? được quyết định theo tập quán truyền thống từ thế hệ
    trước sang thế hệ sau. Tự cung, tự cấp; cần cái gì thì sản xuất cái đó bằng tư liệu sản
    xuất của chính mình, không cần trao đổi.

    Nền kinh tế chỉ huy (kế hoạch hoá tập trung): là nền kinh tế giải quyết ba vấn đề
    kính tế cơ bản đều do Nhà nước quyết định, cân đối. Việc sản xuất cái gì? sản xuất
    như thế nào? phân phối cho ai đều được thực hiện theo kế hoạch tập trung thống nhất
    của Nhà nước.

    Nền kinh tế thị trường: trong nền kinh tế ba chức năng cơ bản là sản xuất cái gì?
    sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? được thực hiện thông qua cơ chế thị trường,
    do thị trường quyết định. Trong đó các cá nhân người tiêu dùng, và các doanh nghiệp
    tác động qua lại lẫn nhau trên thị trường để xác định một hệ thống giá cả, thị trường,
    lợi nhuận, thu nhập,…

    Nền kinh tế hỗn hợp: các hệ thống kinh tế hiện nay, không mang những hình
    thức kinh tế thuần tuý như thị trường, chi huy hay tự nhiên, mà là sự kết hợp các
    nhân tố của các loại hình kinh tế. Và điều đó gọi là nền kinh tế hỗn hợp. Trong nền
    kinh tế hỗn hợp các thể chế công cộng và tư nhân đều có vai trò kiểm soát kinh tế.
    Thông qua bàn tay “vô hình” của thị trường và bàn tay “hữu hình” của Nhà nước.
    Các nhà kinh tế chia các tác nhân trong nền kinh tế hỗn hợp thành 4 nhóm, nhằm giải
    thích hành vi và phương thức thực hiện các chức năng chủ yếu của từng nhóm. Các
    nhóm này tác động qua lại lẫn nhau tạo thành một hệ thống kinh tế hỗn hợp. Trong
    nền kinh tế hỗn hợp, cơ chế thị trường sẽ xác định giá cả và sản lượng trong nhiều
    lĩnh vực còn Chính phủ sẽ điều tiết thị trường thông qua thuế, chi tiêu của Chính phủ,
    luật pháp,… Mô hình kinh tế hỗn hợp của từng nước có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào
    mức độ can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế, và đối với thị trường.

    Người tiêu dùng cuối cùng là tất cả các cá nhân và hộ gia đình, họ mua hàng hoá
    và dịch vụ để thoả mãn những nhu cầu tiêu dùng của họ: Ví dụ như mua lương thực,
    thực phẩm để ăn, mua quần áo để mặc,…. Người tiêu dùng cuối cùng có ảnh hưởng
    rất lớn đến việc quyết định sản xuất cái gì trong nền kinh tế vì họ mua và tiêu dùng

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  8. 8

    phần lớn các sản phẩm của nền kinh tế. Hành vi mua của người tiêu dùng bị thúc đẩy
    bởi một số yếu tố chung nào đó, và người ta có thế dự đoán với mức độ tin cậy nhất
    định. Yếu tố cơ bản trong yếu tố chung đó là người tiêu dùng muốn thoả mãn tối đa
    nhu cầu của họ với thu nhập hạn chế.

    Các doanh nghiệp là người sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ cung cấp cho xã hội,
    mục đích của họ khi thức hiện ba chức năng cơ bản sản xuất cái gì? sản xuất như thế
    nào? sản xuất cho ai? là thu được lợi nhuận cao nhất trong giới hạn nguồn lực của
    mình.

    Trong nền kinh tế hỗn hợp Chính phủ đồng thời vừa là người sản xuất và vừa là
    người tiêu dùng nhiều hàng hoá dịch vụ. Chính phủ tiêu dùng phục vụ vai trò quản lý
    điều hành của Chính phủ. Chính phủ là người sản xuất cũng giống như doanh nghiệp
    tư nhân, nhưng nó phức tạp hơn nhiều bởi vai trò quản lý kinh tế của Chính phủ và có
    thể phác hoạ thông qua 3 chức năng chủ yếu sau:

    (1). Chức năng hiệu quả: Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của các doanh
    nghiệp có hiệu quả, sản xuất phát triển thì Nhà nước phải đưa ra các đạo luật như là
    chống độc quyền, chống ép giá, thuế,…Để hạn chế tác động từ bên ngoài thì Chính
    phủ, càn phải đặt ra các luật lệ ngăn chặn các tác động tiêu cực như: ô nhiễm môi
    trường, huỷ hoại tài nguyên,…

    (2). Chức năng công bằng: Trong nền kinh tế thị trường hàng hoá được phân
    phối cho người có nhiều tiền mua nhất chứ không phải cho người có nhu cầu lớn
    nhất. Do vậy, để bảo đảm sự công bằng trong xã hội, thì Chính phủ phải đưa ra các
    chính sách phân phối lại thu nhập. Ví dụ như hệ thống thuế thu nhập, bảo hiểm, trợ
    cấp,…

    (3). Chức năng ổn định: Chính phủ còn phải thực hiện chức năng kinh tế vĩ mô
    là duy trì sự ổn định kinh tế. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản cho thấy có thời
    kỳ tăng trưởng thì lạm phát tăng vọt, trong thời kỳ suy thoái nặng nề thì thất nghiệp
    lại cao dẫn đến những sự thăng trầm của chu kỳ kinh tế. Chính phủ có thể sử dụng
    các chính sách, công cụ của mình để tác động đến sản lượng và việc làm, làm giảm
    bớt các giao động của chu kỳ kinh doanh.

    Các cá nhân, các doanh nghiệp, Chính phủ nước ngoài tác động đến các hoạt
    động kinh tế diễn ra ở một nước thông qua việc mua bán hàng hoá và dịch vụ, vay
    mượn, viện trợ và đầu tư nước ngoài. Trong một số nước có nền kinh tế khá mở thì
    người nước ngoài có vai trò khá quan trọng.

    4. Một số khái niệm liên quan cơ bản

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  9. 9

    4.1. Yếu tố sản xuất

    Yếu tố sản xuất là đầu vào của quá trình sản xuất và được phân chia thành 3
    nhóm:

    (1). Đất đai và tài nguyên thiên nhiên: bao gồm toàn bộ đất dùng cho canh tác,
    xây dựng nhà ở, đường sá,… các loại nhiên liệu, khoảng sản, cây cối,…

    (2). Lao động Là năng lực của con người được sử dụng theo một mức độ nhất
    định trong quá trình sản xuất. Người ta đo lường lao động bằng thời gian của lao
    động được sử dụng trong quá trình sản xuất.

    (3) Tư bản: Là máy móc, đường sá, nhà xưởng,… được sản xuất ra rồi được sử
    dụng để sản xuất ra các hàng hoá khác. Việc tích luỹ các hàng hoá tư bản trong nền
    kinh tế có một vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của sản xuất.

    4.2. Giới hạn khả năng sản xuất

    Khi xem xét một nền kinh tế với số lượng các yếu tố sản xuất và trình độ công
    nghệ cho trước. Khi quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào?, nền kinh tế
    phải lựa chọn xem các yếu tố hạn chế này được phân phối như thế nào giữa rất nhiều
    các hàng hoá khác nhau được sản xuất ra. Để đơn giản, giả sử rằng toàn bộ nguồn lực
    của nền kinh tế chỉ tập trung vào sản xuất 2 loại hàng hoá là thức ăn và quần áo. Để
    sử dụng hết nguồn lực của nền kinh tế, thì có thể có các cách lựa chọn tổ hợp thức ăn
    và quần áo trong bảng 1.1 sau đây để sản xuất.

    Bảng 1.1 Những khả năng sản xuất thay thế khác nhau

    Khả năng Lương thực (tấn) Quần áo (ngàn bộ)
    A 0 7,5
    B 1 7
    C 2 6
    D 3 4,5
    E 4 2,5
    F 5 0

    Biểu diễn những khả năng này trên đồ thị và nối những điểm này lại ta được
    đường giới hạn khả năng sản xuất.

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  10. 10

    Phương án lựa chọn A là phương án toàn bộ nguồn lực chỉ sản xuất quần án, tại
    đây số lượng quần áo được sản xuất ra là nhiều nhất, còn thực phẩm bằng 0. Tại
    phương án F toàn bộ nguồn lực chỉ tập trung sản xuất lương thực và thực phẩm bằng
    5 là nhiều nhất còn quần áo bằng không. Dọc theo đường cong từ phương án A đến
    phương án F thì quần áo giảm đi và lương thực tăng lên.

    Phương án sản xuất A,B,C,D,E,F là những phương án có hiệu quả vì sử dụng
    hết nguồn lực, và tại đó muốn tăng một đơn vị sản phẩm đầu ra là quần áo thì phải
    cắt giảm đi những đơn vị sản phẩm đầu ra là lương thực. Phương án M là phương án
    sản xuất không có hiệu quả vì chưa sử dụng hết nguồn lực và tại M muốn tăng quần
    áo thì không cần phải cắt giảm lương thực vì còn nguồn lực. Phương án N là phương
    án không thể đạt được của nền kinh tế vì xã hội không đủ nguồn lực.

    Vậy đường giới hạn khả năng sản xuất là một đường biểu diễn tập hợp tất cả các
    phương án sản xuất có hiệu quả; phương án sản xuất có hiệu quả là phương án mà tại
    đó muốn tăng một đơn vị sản phẩm đâu ra nào dó thì buộc phải cát giảm đi những
    đơn vị sản phẩm đầu ra khác. Trong một khoảng thời gian nhất định, mỗi một nền
    kinh tế có một đường giới hạn khả năng sản xuất. Khi các yếu tố sản xuất thay đổi thì
    đường giới hạn khả năng sản xuất cũng thay đổi theo. Nếu nguồn lực được mở rộng
    thì đường giới hạn khả năng sản xuất dịch chuyển sang bên phải, khi nguồn lực sản
    xuất bị thu hẹp lại thì đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ dịch chuyển về phía bên
    trái.

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  11. 11

    4.3. Chi phí cơ hội
    Chi phí cơ hội của một quyết định là giá trị hàng hóa hoặc dịch vụ bị bỏ qua khi
    chúng ta lựa chọn quyết định đó và bỏ qua quyết định khác trong điều kiện khan
    hiếm các yếu tố thực hiện quyết định. Khái niệm chi phí cơ hội cho thấy rằng các chi
    phí tính bằng tiền thực tế bỏ ra không phải luôn là một số phản ảnh chính xác các chi
    phí thực tế.
    4.4. Một số khái niệm khác
    Sản lượng tiềm năng là sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể sản xuất ra
    trong điều kiện toàn dụng nhân công mà không gây nên lạm phát.
    4.4.1. Định luật Okun
    Ý tưởng cơ bản của Định luật Okun: Sản lượng thực tế càng thắp hơn sản lượng
    tiềm năng thì thất nghiệp tăng thêm càng nhiều. Có cách ước lượng:
    – P.A. Samuelson và W.D Nordhaus: Khi sản lượng thực tế thắp hơn sản lượng
    tiềm năng 2% thì thất nghiệp sẽ tăng thêm 1%.
    – R. Dornbursch và S. Fischer: Khi tốc độ tăng của sản lượng thực tế cao hơn
    tốc độ tăng của sản lượng tiềm năng 2,5% thì thất nghiệp sẽ giảm bớt 1%.
    4.4.2. Chu kỳ kinh doanh
    Chu kỳ kinh doanh là hiện tượng sản lượng thực tế dao động lên xuống theo thời
    gian xoay quanh sản lượng tiềm năng:
    – Nếu sản xuất bị thu hẹp đến mức sản lượng thực tế nhỏ hơn sản lượng tiềm
    năng thì nền kinh tế bị suy thóai nghiêm trọng có thể dẫn đến khủng hỏang.
    – Nếu sản xuất mở rộng đến mức sản lượng thực tế lớn hơn sản lượng tiềm năng
    thì thường xảy ra lạm phát cao.

    Sản 2 chu kỳ
    lượng Yt

    Đỉnh YP

    Đỉnh

    Suy thoái kinh tế

    Đáy
    Thu Mở rộng
    hẹp sản xuất
    sản

    Năm
    Hình 1.2. Chu kỳ kinh doanh

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  12. 12

    5. Hệ thống kinh tế vĩ mô
    5.1. Tổng cung (AS)

    (1). Khái niệm tổng cung: Tổng cung là tổng khối lượng sản phẩm quốc dân mà
    các hãng kinh doanh sẽ sản xuất và bán ra trong từng thời kỳ tương ứng với mức giá
    cả chung và khả năng sản xuất.

    (2). Mức sản lượng tiềm năng: Đó là mức sản lượng tối đa mà nền kinh tế có thể
    sản xuất ra trong điều kiện toàn dụng nhân công, mà không gây nên lạm phát. Sản
    lượng tiềm năng phụ thuộc vào việc sử dụng các yếu tố sản xuất đặc biệt là yếu tố lao
    động.

    (3). Đường tổng cung trong ngắn hạn và dài hạn.
    Đường tổng cung là đường biểu diễn mối quan hệ giữa sản lượng sản xuất ra và mức
    giá cả chung. Cần phân biệt giữa đường tổng cung dài hạn và ngắn hạn. Đường tổng
    cung dài hạn (ASLR) là liên hệ giữa sản lượng và mức giá trong thời gian đủ dài để
    giá cả và các yếu tố đầu vào khác hoàn toàn linh hoạt. Đường tổng cung ngắn hạn
    (AS) là quan hệ giữa sản lượng và giá cả chung với giả thiết là giá cả các yếu tố đầu
    vào cố định chưa thay đổi. Đường tổng cung dài hạn là đường thẳng đứng còn đường
    tổng cung ngắn hạn là đường có độ dốc dương.

    Đường tổng cung trong dài hạn: Đường tổng cung trong dài hạn là đường song
    song với trục tung và cắt trục hoành tại mức sản lượng tiềm năng. Vì trong dài hạn
    khi giá cả điều chỉnh đủ mạnh để mọi thị trường, không chỉ thị trường tài chính, thị
    trường hàng hoá mà cả thị trường các yếu tố sản xuất đều ở trạng thái cân bằng. Cân
    bằng thị trường các yếu tố sản xuất có nghĩa là mọi nguồn lực được sử dụng đầy đủ
    và hiệu quả, nên sản lượng không tăng nữa. Khi đó cung về hàng hoá và dịch vụ chỉ

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  13. 13

    phụ thuộc vào cung các yếu tố sản xuất như tư bản, tài nguyên thiên nhiên, lao động
    và trình độ công nghệ của nền kinh tế. Mà không phụ thuộc vào giá cả (giá tăng
    nhưng tổng cung không đổi và bằng sản lượng tiềm năng Y*)
    Đường tổng cung dài hạn biểu thị mức sản lượng tạo ra khi các nguồn lực được sử
    dụng hết đầy đủ và được gọi là sản lượng tiềm năng. Do đó bất kỳ yếu tố sản xuất
    nào thay đổi sẽ làm sản lượng tiềm năng thay đổi và làm dịch chuyển đường tổng
    cung dài hạn.

    Đường tổng cung trong ngắn hạn: Về mặt ngắn hạn, đường tổng cung ban đầu
    tương đối nằm ngang, khi vượt qua mức sản lượng tiềm năng thì đường tổng cung sẽ
    dốc ngược lên. Điều này nói nên rằng khi ở dưới mức sản lượng tiềm năng một sự
    thay đổi nhỏ về giá cả đầu ra sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tăng nhanh mức sản
    lượng để đáp ứng nhu cầu đang tăng lên. Sở dĩ các doanh nghiệp hành động như vậy
    vì trong khoảng thời gian ngắn hạn, đứng trước các đầu vào cố định họ có thể huy
    động đầu vào lao động còn dư để tăng sản lượng. Còn vượt qua mức sản lượng tiềm
    năng các yếu tố sản xuất đã được sử dụng hết, sản lượng không tăng mà chỉ có giá
    tăng. (Hình 2.2)..

    Sự dịch chuyển đường tổng cung ngắn hạn được gọi là cú sốc cung. Những
    nhân tố làm dịch chuyển đường tổng cung dài hạn cũng sẽ làm dịch chuyển đường
    tổng cung ngắn hạn. Bên cạnh các nhân tố đó thì đường tổng cung ngắn hạn còn dịch
    chuyển khi giá cảc các yếu tố đầu vào thay đổi. Nếu mức giá đầu vào tăng thì làm
    tăng chi phí sản xuất làm cho AS dịch chuyển sang trái sang ASSR’ trên hình 2.2
    (thu hẹp khả năng sản xuất). Nếu mức giá đầu vào giảm làm cho chi phí sản xuất
    giảm làm cho khả năng sản xuất mở rộng ra đường tổng cung ngắn hạn dịch chuyển
    sang phải ASSR’’ (hình 2.2)

    5.2. Tổng cầu (AD)

    (1). Khái niệm về tổng cầu: Tổng cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà các
    tác nhân trong nền kinh tế sẵn sàng và có khả năng mua ứng với từng mức giá cả
    chung, thu nhập và các biến số khác không đổi. Tổng cầu bao gồm chi tiêu của hộ gia
    đình, chi tiêu của doanh nghiệp, chi tiêu của Chính phủ và xuất khẩu ròng, và có rất
    nhiều biến số quyết định đến mức sản lượng mà các tác nhân trong nền kinh tế sử
    dụng. Khi các nhân tố này thay đổi thì sẽ làm cho tổng cầu thay đổi.

    (2). Đường tổng cầu: Đường tổng cầu là đường biểu diễn mối quan hệ giữa tổng
    sản phẩm và mức giá cả chung mà các tác nhân trong nền kinh tế chi tiêu. Với trục
    tung biểu thị mức giá cả chung, trục hoành biểu thị mức sản lượng thì đường tổng
    cầu dốc xuống (có độ dốc âm)

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  14. 14

    Đường cầu có độ dốc âm, điều này có nghĩa khi mức giá cả chung giảm đi thì
    tổng cầu tăng và ngược lại.Trên hình 2.3 cho thấy nếu mức giá là PI1 thì Lượng tổng
    cầu là Y1, khi mức giá giảm xuống PI2 thì tổng cầu là Y2 (Y1 > Y2). Tổng cầu sẽ di
    chuyển từ điểm A đến điểm B trên đường tổng cầu.

    Khi các nhân tố ảnh hưởng tới các thành phần chi tiêu của tổng cầu như thay đổi
    trong tiêu dùng cá nhân, đầu tư của doanh nghiệp, chi tiêu của Chính phủ, xuất nhập
    khẩu hàng hoá và dịch vụ thì sẽ làm cho đường tổng cầu dịch chuyển. Nếu làm cho
    tổng cầu tăng thì đường tổng cầu sẽ dịch chuyển sang phải. Nếu làm cho tổng cầu
    giảm thì đường tổng cầu dịch chuyển sang bên trái. Trên hình 2.4 cho thấy nếu tổng
    cầu tăng làm cho đường tổng cầu dịch chuyển tới AD’’, làm cho đường tổng cầu
    giảm thì AD sẽ dịch chuyển sang AD’.

    5.3. Cân bằng tổng cung, tổng cầu
    Nếu ghép 2 mặt cung và cầu của nền kinh tế lại với nhau bằng cách đưa 2 đồ thị
    AD và AS vào cùng một hệ trục, hai đường cung và cầu cắt nhau tại E, là điểm cân
    bằng của nền kinh tế. Tại điểm cân bằng, tổng cung bằng tổng cầu đồng thời xác định
    mức giá cân bằng Po và sản lượng cân bằng Qo.
    Sự dịch chuyển đường tổng cung và tổng cầu:
    – Sự dịch chuyển tòan bộ đuờng AS hoặc AD biểu thị những thay đổi của tổng
    cung hoặc tổng cầu, phụ thuộc vào tác động của những biến số khác.
    – Sự dịch chuyển của đường tổng cầu chủ yếu tùy thuộc vào tác động của các
    biến chính sách, chỉ tiêu chính phủ, lãi suất.
    – Sự dịch chuyển của đường tổng cung phụ thuộc vào các tác động của lao
    động, tài nguyên, kỹ thuật và các chi phí đầu vào khác.

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  15. 15

    P
    AS

    Mức giá chung
    E
    P0

    Q0 AD

    Sản lượng thực tế Q

    Ví dụ: + Giá dầu trên thế giới tăng mạnh: Làm dich chuyển AS sang trái và làm di
    chuyển AD
    + Giảm đáng kể chi tiêu cho quốc phòng: Dịch chuyển AD sang trái và di
    chuyển đường AS

    + Vụ mùa bội thu: Dịch chuyển AS sang phải và di chuyển AD
    + Tăng thuế sử dụng đất đai dẫn đến tăng chi phí sản xuất, tổng cung giảm.
    + Giảm thuế thu nhập dẫn đến tăng thu nhập sau thuế, tăng khả năng thanh
    toán, tăng tiêu dùng do đó tăng tổng cầu
    + Giảm lãi suất tiền gửi tiết kiệm: giảm lãi suất tiền gửi dẫn đến giảm lãi suất
    cho vay, tăng đầu tư do đó tăng tổng cầu.

    6. Mục tiêu và công cụ trong kinh tế vĩ mô
    6.1. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô
    Thành tựu kinh tế vĩ mô của một đất nước thường được đánh dấu theo 3 dấu
    hiệu chủ yếu:
    – Sự ổn định kinh tế: kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề cấp bách
    như lạm phát, suy thoái, thất nghiệp trong thời kỳ ngắn hạn.
    – Tăng trưởng kinh tế đòi hỏi giải quyết những vấn đề dài hạn hơn như chính
    sách tiết kiệm, chính sách đầu tư, chính sách công nghệ, chính sách đào tạo…
    – Công bằng trong phân phối vừa là vấn đề xã hội vừa là vấn đề kinh tế.
    Để có thể đạt được sự ổn định, tăng trưởng và công bằng, các chính sách kinh tế
    vĩ mô phải hướng tới các mục tiêu cụ thể sau:
    a. Sản lượng: tốc độ tăng trưởng cao, vững chắc và sản lượng thực tế cao tương
    ứng với mức sản lượng tiềm năng.

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  16. 16

    b. Việc làm: tạo được nhiều việc làm tốt và hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp.
    c. Ổn định giá cả: hạ thấp và kiểm soát được lạm phát trong điều kiện thị trường
    tự do.
    d. Kinh tế đối ngoại: ổn định tỷ giá hối đối và cân bằng cán cân thanh toán.
    e. Phân phối: công bằng
    Mục tiêu kinh tế vĩ mô rất quan trọng vì đó là cơ sở định hướng phát triển của
    một nền kinh tế. Đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền vững. Trên cơ cở các mục
    tiêu mà các Chính phủ đưa ra các chính sách vĩ mô phù hợp.
    Ta biết rằng nhược điểm lớn nhất của nền kinh tế thị trường là tự động tạo ra
    các chu kì kinh doanh, sản lượng thực tế dao động lên xuống xung quanh trục sản
    lượng tiền năng, nền kinh tế luôn có xu hướng không ổn định.
    Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia thường được đánh giá theo ba dấu
    hiệu chủ yếu: ổn đinh, tăng trưởng và công bằng xã hội. Trong đó ổn định kinh tế là
    một mục tiêu quan trọng hàng đầu của một nền kinh tế. ổn định kinh tế vĩ mô là kiểm
    soát được giá cả, tỷ giá, lãi suất … Bằng việc duy trì và cải thiện các cân đối lớn của
    nền kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường, đặc biệt là cân đối tiền- hàng, cán cân
    thanh toán quốc tế, cân đối giữa thu- chi ngân sách Nhà nước, cân đối vốn đầu tư, cân
    đối cung cầu một số mặt hàng thiết yếu nhất để từ đó làm giảm bớt những dao động
    của chu kì kinh doanh, giải quyết tốt những vấn đề cấp bách: Tránh lạm phát cao và
    thất nghiệp nhiều.

    Ổn định kinh tế-một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng vì:

    – Thứ nhất: ổn định kinh tế vĩ mô là một điều kiện cơ bản của sự phát triển xã hội,
    đặc biệt là hoạt động sản xuất kinh doanh.
    – Thứ hai: ổn định kinh tế vĩ mô là một chức năng quan trọng của nhà nước trong
    vai trò quản lý nên kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước sẽ trực
    tiếp can thiệp vào việc điều hành sản xuất kinh doanh, mà làm tốt chức năng định
    hướng cho sự phát triển xã hội (Bao gồm cả chiến lược, quy hoạch, kế hoạch) đẩy
    mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, ổn định kinh tế vĩ mô, quản lý
    tốt kinh tế nhà nước, đảm bảo việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
    – Thứ ba: Trong thực trạng của kinh tế vĩ mô hiện nay, bên cạnh những kết quả tích
    cực đã xuất hiện một số hạn chế, bất cập và đứng trước những thách thức không nhỏ.

    Năm 2013 với mục tiêu tổng quát (tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát
    thấp hơn, tăng trưởng cao hơn, tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng,
    thực hiện 3 khâu đột khá chiến lược,…) đã đi qua một phần ba thời gian.
    Tiến độ thực hiện các mục tiêu đến nay ra sao và đặt ra vấn đề gì?

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  17. 17

    Ổn định kinh tế vĩ mô
    Kinh tế vĩ mô theo nghĩa rộng, bao gồm nhiều nội dung. Với nghĩa hẹp hơn và
    với nguồn thông tin tháng, người viết đề cập đến nội dung của hai cân đối kinh tế chủ
    yếu là xuất, nhập khẩu và thu chi ngân sách.
    Về xuất khẩu, sau khi liên tục xuất siêu từ tháng 6/2012 đến tháng 2/2013, từ
    tháng 3 đã chuyển sang nhập siêu với quy mô không nhỏ (tháng 3 gần 550 triệu
    USD, bằng 5% kim ngạch xuất khẩu, tháng 4 gần 1 tỷ USD, bằng 10,3%); tính chung
    4 tháng nhập siêu 722 triệu USD, bằng 1,8% xuất khẩu.
    Nguyên nhân tổng quát là so với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu tăng trở lại (2
    tháng 3 và 4 tăng 12,8%, thấp xa so với 22% của 2 tháng đầu năm), trong khi nhập
    khẩu tăng cao lên (tương ứng tăng 21,9% so với 14,1%). Tính chung 4 tháng, nhập
    khẩu tăng cao hơn xuất khẩu.
    Tình hình này được nhìn nhận ở hai góc độ khác nhau. ở góc độ thứ nhất – có
    tính chất tích cực – thì từ tháng 6/2012 đến tháng 2/2013 liên tục xuất siêu có nguyên
    nhân quan trọng là do nhu cầu nhập khẩu giảm bởi đầu tư, sản xuất kinh doanh và
    tiêu dùng bị co lại, nay do nhu cầu nhập khẩu tăng lên chứng tỏ nhu cầu đầu tư, sản
    xuất kinh doanh, tiêu dùng có dấu hiệu thoát dần khỏi trì trệ để phục hồi.
    Nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng, nhập khẩu một số nguyên vật
    liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu tăng cao hơn tốc độ chung, như sản phẩm hoá chất,
    bông các loại, máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng, nguyên phụ liệu dệt may da giày,
    sắt thép các loại, chất dẻo nguyên liệu,… hoặc tuy còn giảm nhưng đã giảm ít hơn,
    như xăng dầu. ở góc độ thứ hai theo ý nghĩa tiêu cực – thì việc nhập siêu trở lại sẽ tác
    động tiêu cực đến cán cân thanh toán tổng thể, dự trữ ngoại hối, tỷ giá.
    Việc kiểm soát nhập khẩu những mặt hàng không khuyến khích và cần kiềm chế
    nếu không tăng cường sẽ gia tăng trở lại.
    Về thu, chi ngân sách, với tiến độ thực hiện so với dự toán cả năm còn thấp và
    thực hiện của tổng thu thấp hơn của tổng chi cả về tỷ lệ so với dự toán năm, cả về tốc
    độ tăng so với cùng kỳ năm trước, sẽ làm cho việc cân đối ngân sách tiếp tục khó
    khăn. Trong khi yêu cầu tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường,
    thực hiện các mục tiêu tái cơ cấu, 3 đột phá chiến lược đòi hỏi cắt giảm, giãn hoãn
    thu, tăng chi lớn.
    Kiềm chế lạm phát
    CPI tháng 3 giảm (0,19%), tháng 4 tăng không đáng kể (0,02%), nên tính chung
    4 tháng tăng thuộc loại thấp so với cùng kỳ trong nhiều năm qua. Kết quả này được
    xét trên hai mặt.
    Về mặt tích cực, đó là niềm vui cho người tiêu dùng, đặc biệt là người có thu
    nhập thấp, những người bị thất nghiệp, thiếu việc làm, bởi tỷ trọng tiêu dùng lương
    thực – thực phẩm trong tổng chi tiêu dùng rất cao, trong khi giá lương thực năm
    trước đã giảm sâu (giảm 5,66%) 4 tháng đầu năm nay tiếp tục giảm (giảm 0,93%);
    giá thực phẩm năm trước tăng thấp (0,95%), năm nay tháng 3 giảm (0,95%), tháng 4

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  18. 18

    giảm sâu (1,24%).
    Đây là tín hiệu khả quan để cả năm thực hiện được mục tiêu đã đề ra, tạo tiền đề
    để các nhà quản lý, điều hành vĩ mô có thể yên tâm hơn trong việc thực hiện giải
    pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, hỗ trợ thị trường, thực hiện mục tiêu tăng
    trưởng cao hơn và các mục tiêu khác mà Quốc hội đã phê duyệt.
    Xét ở mặt khác, lạm phát thấp không phải do nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng
    năng suất lao động, mà chủ yếu do tổng cầu (bao gồm cả đầu tư và cả tiêu dùng)
    giảm. Đồng thời các giải pháp kiềm chế lạm phát đã có hiệu ứng phụ là tăng trưởng
    tín dụng thấp, sản xuất kinh doanh có tỷ trọng vốn vay ngân hàng lớn sẽ thiếu vốn
    hoạt động; lại gặp lúc người dân “thắt lưng buộc bụng”, nên đầu tư và tiêu dùng đều
    bị co lại, tồn kho tăng, kéo dài, lan rộng trên nhiều ngành, lĩnh vực.
    Kết quả là sản xuất kinh doanh đứng trước nguy cơ trì trệ, so với cùng kỳ năm
    trước số DN ngừng hoạt động, phá sản thì tăng, số doanh nghiệp đăng ký mới thì
    giảm. Nguyên Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển đã cảnh báo, coi chừng
    “quá tay” trong kiềm chế lạm phát.
    Tăng trưởng kinh tế
    Tăng trưởng GDP quý 1/2013 cao hơn cùng kỳ năm trước (4,89% so với
    4,75%), nhưng chủ yếu do tăng trưởng nhóm ngành dịch vụ cao hơn cùng kỳ, còn 2
    nhóm ngành sản xuất sản phẩm vật chất (kinh tế thực) lại thấp hơn cùng kỳ.
    Bước sang tháng 4, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng cao hơn, nên tính chung 4
    tháng tăng 5%, cao hơn của 3 tháng (4,9%). Đáng chú ý, tốc độ tăng 4 tháng năm nay
    vẫn thấp hơn tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước (5% so với 5,9%) và việc thấp này
    diễn ra ở 3 ngành chi tiết là công nghiệp khai khoáng (2,1% so với 3%), công nghiệp
    chế biến (5,5% so với 6%), sản xuất và phân phối điện (9% so với 12,9%); riêng
    cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng bằng cùng kỳ (8,8%). Tốc độ tăng tồn
    kho đến 1/4 là 13,1%, đã thấp hơn các thời điểm trước.
    Vốn đầu tư từ nguồn ngân sách thực hiện 4 tháng mới bằng 25,7% kế hoạch cả
    năm và giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn trung ương quản lý đạt thấp
    hơn (23,2%) và giảm sâu hơn (giảm 17%).
    Riêng vốn FDI đăng ký đạt trên 8,2 tỷ USD, tăng 17%, trong đó đăng ký mới
    đạt gần 4,9 tỷ USD, tăng 14,6%, vốn bổ sung đạt gần 3,35 tỷ USD; vốn thực hiện đạt
    3,8 tỷ USD, tăng 3,9%.
    Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng (đã loại trừ yếu tố
    tăng giá tiêu dùng) tăng 4,6%, cao hơn tốc độ tăng 4,5% của quý 1.
    Tăng trưởng kinh tế vẫn còn gặp khó khăn ở cả đầu vào và đầu ra, cần phải có
    các biện pháp tháo gỡ kịp thời.
    6.2. Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu
    – Chính sách tài khoá

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  19. 19

    Chính sách tài khoá nhằm điều chỉnh thu nhập và chi tiêu của Chính phủ nhằm
    hướng nền kinh tế vào một mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tài
    khoá có hai công cụ chủ yếu đó là chi tiêu của Chính phủ và thuế.

    Chi tiêu của Chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp đến chi tiêu công cộng, do đó nó
    tác động trực tiếp đến tổng cầu và sản lượng.

    Thuế làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm chi tiêu của khu vực tư
    nhân, từ đó cũng tác động đến tổng cầu và sản lượng. Thuế cũng có thể tác động đến
    đầu tư và sản lượng về mặt dài hạn.

    Trong ngắn hạn 1 đến 2 năm chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực
    tế và lạm phát phù hợp với các mục tiêu ổn định nền kinh tế. Về mặt dài hạn chính
    sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế giúp cho sự tăng trưởng và
    phát triển lâu dài.

    – Chính sách tiền tệ

    Chính sách tiền tệ chủ yếu nhằm tác động đến đầu tư tư nhân, hướng nền kinh tế
    vào mức sản lượng và việc làm mong muốn. Chính sách tiền tệ có hai công cụ chủ
    yếu là kiểm soát mức cung tiền và kiểm soát lãi suất. Khi ngân hàng Trung ương thay
    đổi lượng cung tiền thì lãi suất sẽ tăng hoặc giảm tác động đến đâù tư tư nhân, do vậy
    ảnh hưởng đến tổng cầu và sản lượng. Chính sách tiền tệ có tác động lớn đến tổng
    sản phẩm quốc dân về mặt ngắn hạn, song do tác động đến đầu tư nên nó cũng có ảnh
    hưởng lớn đến GNP trong dài hạn.

    – Chính sách kinh tế đối ngoại

    Chính sách kinh tế đối ngoại trong các nước có thị trường mở nhằm ổn định tỷ
    giá hối đoái, và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận được.
    Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bằng, các quy
    định về hàng rào thuế quan, bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp tài chính tiền tệ
    khác, có tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu.

    – Chính sách thu nhập

    Chính sách thu nhập gồm các biện pháp mà Chính phủ sử dụng nhằm tác động
    trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát. Chính sách này sử dụng nhiều
    công cụ, từ những công cụ có tính chất cứng rắn như ấn định mức tiền công và giá cả
    đến những công cụ mềm dẻo như là những hướng dẫn, kích thích bằng thuế thu nhập.

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

  20. 20

    CÂU HỎI:

    1/ Trình bày 3 vấn đề cơ bản của một nền kinh tế

    2/ Trình bày các khái niệm cơ bản về kinh tế học

    3/ Trình bày các khái niệm về tổng cung, tổng cầu, sản lượng cân bằng

    4/ Vận dụng kiến thức đã học để đánh giá ưu nhược điểm của các mô hình kinh tế.

    5/ Đánh giá sự tác động của các chính sách vĩ mô đối với nền kinh tế.

    Giáo trình Kinh tế Vĩ Mô

Download tài liệu Giáo trình Kinh tế vĩ mô File Docx, PDF về máy

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button