[Download] Bài giảng Quản trị chuỗi cung ứng (Bậc Đại học) – ĐH Phạm Văn Đồng – Tải về File Word, PDF
Bài giảng Quản trị chuỗi cung ứng (Bậc Đại học) – ĐH Phạm Văn Đồng
Bài giảng Quản trị chuỗi cung ứng (Bậc Đại học) – ĐH Phạm Văn Đồng
Nội dung Text: Bài giảng Quản trị chuỗi cung ứng (Bậc Đại học) – ĐH Phạm Văn Đồng
Bạn đang xem: [Download] Bài giảng Quản trị chuỗi cung ứng (Bậc Đại học) – ĐH Phạm Văn Đồng – Tải về File Word, PDF
Bài giảng Quản trị chuỗi cung ứng gồm có 6 chương, cung cấp cho người học những kiến thức như: Tổng quan về quản trị chuỗi cung ứng; Các quy trình của chuỗi cung ứng: hoạch định và thu mua; Các quy trình của chuỗi cung ứng: sản xuất và phân phối; Ứng dụng công nghệ thông tin trong chuỗi cung ứng; Xây dựng hệ thống chuỗi cung ứng; Hệ thống đo lường hiệu suất hoạt động chuỗi cung ứng. Mời các bạn cùng tham khảo!
Nội dung
Bài giảng Quản trị chuỗi cung ứng (Bậc Đại học) – ĐH Phạm Văn Đồng
Mô tả tài liệu
Nội dung Text: Bài giảng Quản trị chuỗi cung ứng (Bậc Đại học) – ĐH Phạm Văn Đồng
- TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHẠM VĂN ĐỒNG
KHOA KINH TẾ
BÀI GIẢNG
MÔN: QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG
ỨNG
(Dùng cho đào tạo tín chỉ – Bậc Đại học)Người biên soạn: T.S Nguyễn Thị Huyền
Lưu hành nội bộ – Năm 2021
- MỤC LỤC
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG ……………………… 1
1.1 Khái niệm chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng ……………………………… 1
1.1.1. Khái niệm chuỗi cung ứng ………………………………………………………………….. 1
1.2.1. Khái niệm quản trị chuỗi cung ứng………………………………………………………… 2
1.2 Vai trò, ý nghĩa của quản trị chuỗi cung ứng ……………………………………………….. 4
1.2.1 Vai trò của quản trị chuỗi cung ứng ……………………………………………………… 4
1.2.2. Ý nghĩa của quản trị chuỗi cung ứng ……………………………………………………. 5
1.3 Cách thức hoạt động của chuỗi cung ứng ……………………………………………………. 6
1.4 Cấu trúc chuỗi cung ứng ……………………………………………………………………….. 7
1.5 Thành viên của chuỗi cung ứng ……………………………………………………………… 9
Chương 2: CÁC QUY TRÌNH CỦA CHUỖI CUNG ỨNG: HOẠCH ĐỊNH VÀ
THU MUA ……………………………………………………………………………………………………. 13
2.1 Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp – ERP …………………………………. 13
2.2 Dự báo nhu cầu ……………………………………………………………………………………… 14
2.2.1 Khái niệm ………………………………………………………………………………………… 14
2.2.2 Các phương pháp dự báo …………………………………………………………………… 15
2.3 Quản trị tồn kho …………………………………………………………………………………….. 21
2.3.1 Phân tích ABC trong phân loại tồn kho ……………………………………………….. 21
2.3.2. Các mô hình tồn kho ………………………………………………………………………… 23
2.4 Quản trị thu mua…………………………………………………………………………………….. 28
2.4.1 Mục tiêu của thu mua ………………………………………………………………………… 28
2.4.2 Lựa chọn nhà cung cấp chất lượng ……………………………………………………… 28
2.4.3 Quy trình thu mua …………………………………………………………………………….. 31
Chương 3: CÁC QUY TRÌNH CỦA CHUỖI CUNG ỨNG: SẢN XUẤT VÀ
PHÂN PHỐI …………………………………………………………………………………………………. 35
3.1 Thiết kế sản xuất ……………………………………………………………………………………. 35
3.1.1 Hệ thống sản xuất……………………………………………………………………………… 35
3.1.2 Quy trình sản xuất …………………………………………………………………………….. 36
3.1.3 Bố trí sản xuất ………………………………………………………………………………….. 38
3.2 Điều độ sản xuất (Production Scheduling) ………………………………………………… 40
3.2.1 Khái niệm ………………………………………………………………………………………… 40
3.2.2 Nhiệm vụ của điều độ sản xuất……………………………………………………………. 41
3.2.3 Nội dung của điều độ sản xuất ……………………………………………………………. 41
3.3 Quản lý nhà máy sản xuất ……………………………………………………………………….. 41 - 3.4 Quản trị đơn đặt hàng ……………………………………………………………………………… 42
3.5 Kế hoạch phân phối ………………………………………………………………………………… 44
3.6 Thuê ngoài trong hoạt động cung ứng (Outsourcing) ………………………………….. 45
Chương 4: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG CHUỖI CUNG
ỨNG …………………………………………………………………………………………………………….. 48
4.1. Hệ thống thông tin hỗ trợ chuỗi cung ứng ………………………………………………… 48
4.2 Những khuynh hướng mới trong ứng dụng công nghệ thông tin trong chuỗi cung
ứng …………………………………………………………………………………………………………….. 51
4.3 Thương mại điện tử và ứng dụng thương mại điện tử trong chuỗi cung ứng ….. 52
Chương 5: XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHUỖI CUNG ỨNG …………………………… 55
5.1 Nguyên tắc tổ chức dự án phát triển hệ thống chuỗi cung ứng……………………… 55
5.2 Thiết kế hệ thống chuỗi cung ứng …………………………………………………………….. 57
5.3 Quy trình thiết kế hệ thống………………………………………………………………………. 58
5.4 Kiểm tra và đưa hệ thống vào sử dụng ……………………………………………………… 60
Chương 6: HỆ THỐNG ĐO LƯỜNG HIỆU SUẤT HOẠT ĐỘNG CHUỖI
CUNG ỨNG …………………………………………………………………………………………………. 62
6.1 Đo lường hiệu suất hoạt động chuỗi cung ứng …………………………………………… 62
6.1.1 Dịch vụ khách hàng …………………………………………………………………………… 63
6.1.2 Hiệu quả hoạt động nội bộ …………………………………………………………………. 64
6.1.3 Khả năng phản ứng linh hoạt trước biến động cầu ……………………………….. 65
6.1.4 Phát triển sản phẩm …………………………………………………………………………. 66
6.2 Những hoạt động nâng cao năng lực chuỗi cung ứng ………………………………….. 67
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………………………………… 69 - Chương 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG
1.1 Khái niệm chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng
1.1.1. Khái niệm chuỗi cung ứng
Có nhiều khái niệm về chuỗi cung ứng. Chuỗi cung ứng được định nghĩa là sự
hợp tác giữa các doanh nghiệp để đưa sản phẩm và dịch vụ ra thị trường1. Chuỗi cung
ứng cũng được cho là tập hợp các doanh nghiệp trong một chuỗi từ nhà cung ứng
nguyên vật liệu đến nhà sản xuất sản phẩm và phân phối sản phẩm đến người cuối
cùng2. Chuỗi cung ứng cũng được hiểu là mạng lưới liên kết các tổ chức, gồm liên kết
ngược (upstream linkages) và liên kết xuôi (downstream linkages), thông qua quá
trình và hoạt động nhằm tạo ra giá trị cho các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho người
tiêu dùng cuối cùng3. Các doanh nghiệp có liên quan đến việc sản xuất và cung ứng
sản phẩm/dịch vụ đến tay người tiêu dùng như nhà cung cấp nguyên vật liệu, nhà lắp
ráp, nhà bán buôn, nhà bán lẻ, công ty vận chuyển đều là những thành phần của chuỗi
cung ứng4.
Như vậy, chuỗi cung ứng bao gồm tất cả những thành phần liên quan trực tiếp
hay gián tiếp nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Chuỗi cung ứng không chỉ bao
gồm nhà sản xuất, nhà cung cấp mà còn liên quan đến nhà vận chuyển, nhà kho, nhà
bán lẻ, và khách hàng. Chuỗi cung ứng là một mạng lưới các thành phần và sự lựa
chọn phân phối nhằm thực hiện chức năng thu mua nguyên vật liệu, biến đổi nguyên
vật liệu thành bán thành phẩm và thành phẩm, phân phối sản phẩm đến nơi tiêu dùng.1
Lambert Douglas M, James R Stock và Lisa M Ellram (1998), Fundamentals of logistics management, Nhà
xuất bản McGraw-Hill/Irwin
2
LaLonde Bernard J (1998), Supply chain evolution by the numbers, Supply Chain Management Review, Số
2(1),Trang: 7-8.
3
Nguyễn Thành Hiếu (2015a), Quản trị hợp tác trong chuỗi cung ứng, Xuất bản lần thứ 1, Nhà xuất bản Đại học
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, Việt Nam, trang 4.4
LaLonde Bernard J (1998), Supply chain evolution by the numbers, Supply Chain Management Review, Số
2(1),Trang: 7-8.1
- Hình 1.1: Chuỗi cung ứng điển hình
Một số điểm cần chú ý đối với chuỗi cung ứng:
– Chuỗi cung ứng thể hiện sự dịch chuyển nguyên vật liệu, sản phẩm xuyên
suốt quá trình từ nhà cung cấp ban đầu đến khách hàng cuối cùng.
– Chuỗi cung ứng bao gồm các thành viên trực tiếp (nhà cung cấp, nhà sản
xuất, nhà phân phối, khách hàng) và các thành viên gián tiếp (các doanh nghiệp vận
tải, các doanh nghiệp cung cấp thông tin, các doanh nghiệp kinh doanh kho bãi, các
nhà môi giới, các nhà tư vấn,…)
– Khách hàng là thành tố tiên quyết của chuỗi cung ứng. Mục đích then chốt
của bất kỳ chuỗi cung ứng nào là nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng trong tiến trình
tạo ra lợi nhuận cho chính doanh nghiệp. Các hoạt động chuỗi cung ứng bắt đầu với
đơn đặt hàng và kết thúc khi khách hàng thanh toán đơn đặt hàng của họ.
– Trong nội bộ mỗi doanh nghiệp, chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các chức
năng liên quan đến việc hoàn thành đòi hỏi của khách hàng (phát triển sản phẩm,
marketing, sản xuất, phân phối, tài chính, dịch vụ khách hàng,…).
– Dòng thông tin, nguyên vật liệu và tài chính sẽ luân chuyển trong toàn chuỗi
cung ứng.
1.2.1. Khái niệm quản trị chuỗi cung ứng
Thuật ngữ “quản trị chuỗi cung ứng” xuất hiện từ cuối những năm 1980s và
được sử dụng rộng rãi vào những năm 1990s. Trước đó, các nhà kinh doanh sử dụng
thuật ngữ “logistic” và “quản trị vận hành” (operations management) để thay thế5.5
Hugos Michael H (2011), Essentials of supply chain management, Nhà xuất bản John Wiley & Sons,
trang 3.2
- Quản trị chuỗi cung ứng là sự kết hợp sản xuất, tồn kho, địa điểm và vận tải
giữa các thành viên tham gia trong chuỗi cung ứng nhằm đạt được hiệu quả nhất trên
thị trường6.
Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm hoạt động hợp tác của các doanh nghiệp
nhằm tạo đòn bẩy cho việc hoạch định chiến lược và nâng cao hiệu quả của hoạt động
vận hành. Với mỗi doanh nghiệp khi tham gia vào chuỗi, mỗi mối quan hệ phản ánh
sự lựa chọn mang tính chiến lược. Chiến lược chuỗi cung ứng là sự sắp xếp các tổ
chức kinh doanh và kênh phân phối dựa trên sự phụ thuộc lẫn nhau và các hợp tác đã
được thừa nhận7. Khái niệm quản trị chuỗi cung ứng còn mang ý nghĩa một mạng lưới
các mối quan hệ kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả bằng cách loại trừ các công việc
trùng lắp và năng suất thấp.
Quản trị chuỗi cung ứng gắn liền với hầu như tất cả các hoạt động của doanh
nghiệp: từ việc hoạch định và quản lý quá trình tìm nguồn hàng, thu mua, sản xuất
thành phẩm từ nguyên liệu thô, quản lý hậu cần… đến việc phối hợp với các đối tác,
nhà cung cấp, các kênh trung gian, nhà cung cấp dịch vụ và khách hàng. Nói
chung, quản trị chuỗi cung ứng gồm quản lý cung và cầu trong toàn hệ thống của các
doanh nghiệp.
Quản trị chuỗi cung ứng bao gồm mạng lưới các quyết định về các vấn đề
chính sau:
– Thu mua: Trên cơ sở nhu cầu các nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, dịch
vụ,… đã được xác định. Doanh nghiệp sẽ phải tổ chức lựa chọn nhà cung cấp, ký kết
hợp đồng, tổ chức thực hiện, nhập kho, bảo quản và cung cấp cho các bộ phận có nhu
cầu.
– Phân phối: Phân phối là một trong những hoạt động quan trọng trong chuỗi
cung ứng, nối liền doanh nghiệp và khách hàng. Bản chất của phân phối là làm thay
đổi vị trí của sản phẩm từ nhà sản xuất đến khách hàng cuối cùng. Doanh nghiệp
thường cố định, còn khách hàng thì hầu hết ở khắp nơi, nếu không có hoạt động phân
phối thì sản phẩm khó có thể đến tay khách hàng nơi xa.
– Tồn kho: Tồn kho như là một bộ phận giảm xóc cho tính không chắc chắn,
không ổn định trong chuỗi cung ứng. Tồn kho trong chuỗi cung ứng bao gồm tồn kho6
Hugos Michael H (2011), Essentials of supply chain management, Nhà xuất bản John Wiley & Sons,
trang 4.
7
Nguyễn Thành Hiếu (2015a), Quản trị hợp tác trong chuỗi cung ứng, Xuất bản lần thứ 1, Nhà xuất
bản Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, Việt Nam, trang 5.3
- nguyên vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm.
– Địa điểm: Đúng địa điểm không bảo đảm sự thành công cho doanh nghiệp
nhưng sai địa điểm chắc chắn sẽ dẫn đến thất bại. Doanh nghiệp cần xác định các vị
trí tốt nhất cho các cấu thành khác nhau trong chuỗi cung ứng của mình.
– Vận tải: Hoạt động này liên quan đến việc dịch chuyển nguyên vật liệu từ
nhà cung cấp đến doanh nghiệp hoặc sản phẩm hoàn thành từ doanh nghiệp đến với
khách hàng. Điều này bao gồm việc lựa chọn phương tiện và loại hình vận tải, lựa
chọn doanh nghiệp vận tải, thiết kế quy trình vận chuyển để đảm bảo rằng việc vận
chuyển an toàn, đúng lúc với giá cả hợp lý.
– Thông tin: Xuyên suốt chuỗi cung ứng chính là dòng thông tin. Thông tin
gắn kết các thành tố của chuỗi cung ứng. Thông tin chính xác và kịp thời giúp doanh
nghiệp có các quyết định đúng đắn về hoạt động quản trị chuỗi cung ứng của mình.
1.2 Vai trò, ý nghĩa của quản trị chuỗi cung ứng
1.2.1 Vai trò của quản trị chuỗi cung ứng
– Cung ứng là 1 hoạt động quan trọng, không thể thiếu của mọi tổ chức.
Mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển đều cần có các hoạt động sau:
+ Sáng tạo (Creation) – phải có ý tưởng và khả năng sáng tạo không ngừng
+ Tài chính (Finance) – thu hút vốn và quản lý nguồn vốn
+ Nhân sự (Personel) – quản lý nguồn nhân lực
+ Mua hàng (Purchasing) – thu mua nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, dịch
vụ… để phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
+ Sản xuất chế biến (Conversion) – tổ chức sản xuất, chế biến nguyên vật liệu
thành sản phẩm.
+ Phân phối (Distribution) – tiếp nhận và bán các hàng hóa, dịch vụ do doanh
nghiệp làm ra.
Để thực hiện các hoạt động trên, trong doanh nghiệp thường có các bộ phận
tương ứng như phòng kỹ thuật- nghiên cứu và phát triển, phòng tài chính/kế toán tài
vụ, phòng nhân sự, phòng cung ứng, phòng điều độ sản xuất và các phương tiện sản
xuất, phòng marketing và bán hàng,…
Như vậy, mọi doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển nếu không được
cung cấp các yếu tố đầu vào: nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị dịch vụ.. Cung ứng là
hoạt động nhằm đáp ứng các nhu cầu đó của doanh nghiệp – cung ứng là hoạt động
không thể thiếu trong mọi tổ chức. Do vậy, quản trị chuỗi cung ứng có vai trò cực kỳ
quan trọng trong tổ chức.
– Cung ứng là một nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động4
- kinh doanh của doanh nghiệp.
Mục tiêu của mọi doanh nghiệp là tạo ra nhiều lợi nhuận. Để đạt mục tiêu đó,
cần có các nguồn lực đầu vào như máy móc thiết bị, nhân lực, tiền, nguyên liệu, quản
lý. Trong đó, hoạt động cung ứng bảo đảm 2 yếu tố: máy móc, thiết bị và nguyên vật
liệu. Nếu hoạt động cung ứng tốt: cung cấp đầy đủ, kịp thời máy móc, trang thiết bị,
nguyên vật liệu; với máy móc đạt chất lượng tốt, công nghệ tiên tiến, nguyên vật liệu
tốt, giá rẻ… thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới có thể diễn ra
liên tục, nhịp nhàng với năng suất cao, tiết kiệm chi phí và làm ra sản phẩm đạt chất
lượng tốt, giá thành hạ, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng. Đặc biệt trong điều kiện
hiện nay, chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong giá thành sản
phẩm thì cung ứng càng có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh
của tổ chức.
– Cung ứng đóng vai trò người quản lý hoạt động sản xuất từ bên ngoài
Để đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu, thiết bị máy móc cho sản xuất, có 2
nguồn.
+ Nguồn 1: doanh nghiệp tự sản xuất.
+ Nguồn 2: thu mua, đặt hàng từ bên ngoài.
Cùng với sự phát triển của phân công lao động xã hội, thì nguồn 2 ngày càng
trở nên quan trọng hơn.
Nếu cung ứng làm tốt chức năng của mình: cung cấp nguyên vật liệu đúng tên
gọi và chất lượng, đủ số lượng, kịp thời gian và với chi phí thấp, thì sản xuất sẽ tiến
hành liên tục, nhịp nhàng, mang lại hiệu quả cao; còn ngược lại thì sản xuất sẽ bị gián
đoạn và hiệu quả thấp. Do vậy, cung ứng chính là người điều phối sản xuất từ bên
ngoài.
1.2.2. Ý nghĩa của quản trị chuỗi cung ứng
Quản trị chuỗi cung ứng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh cạnh tranh trên thị
trường ngày càng tăng cao, nguồn cung cấp hàng hóa ngày càng bị siết chặt. Chuỗi
cung ứng có mức tác động lớn sẽ chiếm lĩnh thị trường và sự tín nhiệm của khách
hàng, tạo nên giá trị cổ đông, mở rộng chiến lược và khả năng vươn xa cho doanh
nghiệp. Thêm vào đó, trong môi trường kinh doanh hiện nay, chuỗi cung ứng là một
trong những nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với đối thủ
cùng ngành. Ý nghĩa của quản trị chuỗi cung ứng được thể hiện:
– Đảm bảo cho sản xuất tiến hành nhịp nhàng, liên tục.
– Tạo điều kiện nâng cao trình độ kỹ thuật của sản xuất, kích thích các hoạt động
sáng tạo, áp dụng các kỹ thuật mới, tạo ra các năng lực sản xuất mới.5
- – Tạo điều kiện nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm.
– Tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị
1.3 Cách thức hoạt động của chuỗi cung ứng
– Hoạch định
Quy trình này bao gồm tất cả các công đoạn cần thiết liên quan đến việc lên kế
hoạch và tổ chức hoạt động cho ba quy trình còn lại.
Trong hoạch định chúng ta cần lưu ý đến ba hoạt động:
+ Dự báo lượng cầu: Xác định rõ lượng nhu cầu của người tiêu dùng trên thị
trường để tổ chức sản xuất cho phù hợp, tránh trường hợp dư thừa và tồn kho quá
mức.
+ Định giá sản phẩm: Giá cả là một nhân tố quan trọng đối với doanh nghiệp nói
chung và người tiêu dùng nói riêng, sản phẩm có mang tính cạnh tranh cao hay không
tùy thuộc vào yếu tố này nên doanh nghiệp cần xem xét và quyết định giá cho phù
hợp.
+ Quản lý lưu kho: Việc này nhằm mục đích quản lý mức độ và số lượng hàng
tồn kho của doanh nghiệp. Mục tiêu chính của hoạt động này là làm giảm chi phí cho
vệc lưu kho xuống mức tối thiểu, loại bỏ chi phí thừa trong giá thành sản phẩm cuối
cùng.
– Tìm kiếm nguồn hàng
Mục đích của hoạt động tìm kiếm nguồn hàng nhằm giúp cho doanh nghiệp có
thể so sánh được điểm mạnh hoặc điểm yếu của các nhà cung cấp khác nhau, từ đó
làm cơ sở để chọn ra nhà cung cấp hoàn hảo nhất cho doanh nghiệp của mình.
Trong việc tìm kiếm nguồn hàng, có 2 hoạt động chính cần lưu ý: thu mua, bán
chịu.
– Sản xuất
Có thể nói đây là hoạt động quan trọng nhất trong toàn bộ chuỗi cung ứng, nó là
tinh hoa của hai công đoạn trước và là công đoạn “thật” giúp cho doanh nghiệp tạo ra
lợi nhuận cho họ.
Hoạt động sản xuất gồm 3 hoạt động chính:
+ Thiết kế sản phẩm: Đáp ứng mong muốn về đặc tính, tính chất (lý tính, hóa
tính)… của sản phẩm đối vớii nhu cầu của khách hàng.
+ Lập quy trình sản xuất: Tính toán thời gian sản xuất sao cho phù hợp nhất để
có thể đáp ứng kịp thời cho nhu cầu của khách hàng.
+ Quản lý phương tiện.
– Phân phối
Sau khi trải qua các quá trình trên, cũng rất quan trọng, đó là quá trình phân phối6
- sản phẩm, đưa sản phẩm này đến tay người tiêu dùng.
Các họat động phân phối bao gồm:
+ Quản lý đơn hàng: Quản lý đơn hàng của khách hàng về số lượng, thời gian,
địa điểm… mà khách hàng cần
+ Lập lịch biểu giao hàng: Lập lịch giao hàng sao cho thuận tiện nhất có thể, đáp
ứng nhu cầu khách hàng theo đúng thời gian qui định trong hợp đồng.
+ Quy trình trả hàng: Đối với những sản phẩm bị hư hỏng, công ty phải bố trí để
chuyên chở những loại hàng đó về để tiến hành sửa chữa hoặc tiêu hủy nếu cần.Hình 1.2: Hoạt động trong chuỗi cung ứng
1.4 Cấu trúc chuỗi cung ứng
Cấu trúc chuỗi cung ứng có thể được thể hiện ở các hình thức sau:
– Hoạt động xuôi dòng và hoạt động ngược dòng
Lấy doanh nghiệp nào đó trong chuỗi làm quy chiếu, nếu xét các hoạt động trước
nó – dịch chuyển nguyên vật liệu đến – được gọi là các hoạt động ngược dòng; nếu xét
các hoạt động phía sau nó – dịch chuyển sản phẩm ra ngoài – được gọi là các hoạt
động xuôi dòng.
Các hoạt động ngược dòng được dành cho các nhà cung cấp: Nhà cung cấp
chuyển nguyên vật liệu trực tiếp đến doanh nghiệp là nhà cung cấp cấp một. Nhà cung
cấp đảm nhiệm việc dịch chuyển nguyên vật liệu cho nhà cung cấp cấp một là nhà
cung cấp cấp hai. Cứ ngược dòng như vậy sẽ đến nhà cung cấp cấp ba,… rồi đến tận
cùng sẽ là nhà cung cấp gốc.7
- Các hoạt động xuôi dòng được dành cho khách hàng: Khách hàng nhận sản
phẩm trực tiếp từ doanh nghiệp là khách hàng cấp một. Khách hàng nhận sản phẩm từ
khách hàng cấp một là khách hàng cấp hai. Tương tự, chúng ta sẽ có khách hàng cấp
ba,… và tận cùng của dòng dịch chuyển này là khách hàng cuối cùng.Hình 1.3: Các hoạt động trong một chuỗi cung ứng
– Chuỗi hội tụ và chuỗi phân kỳ
Hình 1.4: Chuỗi cung ứng hội tụ và phân kỳ
Trong thực tế, đa số các doanh nghiệp mua nguyên vật liệu từ nhiều nhà cung
cấp khác nhau và bán sản phẩm đến nhiều khách hàng. Vì vậy, chúng ta có khái niệm
chuỗi hội tụ và chuỗi phân kỳ. Chuỗi hội tụ khi nguyên vật liệu dịch chuyển giữa các
nhà cung cấp. Chuỗi phân kỳ khi sản phẩm dịch chuyển xuyên suốt các khách hàng.
– Liên kết dọc và liên kết ảo
Ngày nay do toàn cầu hóa, thị trường cạnh tranh cao, thay đổi nhanh về công
nghệ kéo theo sự tiến triển của chuỗi cung ứng trong đó các công ty kết hợp với nhau
và mỗi công ty tập trung vào những hoạt động mà mình làm tốt nhất.8
- Hình 1.5: Chuỗi cung ứng cũ và mới
Xu hướng hiện nay các công ty thực hiện “liên kết ảo” (virtual integration) thay
vì liên kết dọc (vertical integration). Các công ty tìm kiếm các đối tác khác để cùng
thực hiện các hoạt động cần có trong chuỗi cung ứng. Nói chung, các công ty tập
trung vào năng lực cốt lõi của mình và hợp tác với công ty khác nhằm tạo ra chuỗi
cung ứng trong thị trường biến đổi nhanh chóng (fast-moving markets)8. Như vậy,
điều quan trọng hơn hết chính là công ty phải xác định được năng lực cốt lõi của mình
và xác định vị thế của công ty trong chuỗi cung ứng, trên thị trường mà công ty phục
vụ.
1.5 Thành viên của chuỗi cung ứng
– Với hình thức đơn giản nhất, một chuỗi cung ứng bao gồm công ty, các nhà
cung cấp và khách hàng của công ty đó. Đây là tập hợp những thành viên cơ bản để
tạo ra một chuỗi cung ứng cơ bản.
– Những chuỗi cung ứng mở rộng cũng có ba nhóm thành viên truyền thống:
Nhóm 1: nhà cung cấp của các nhà cung cấp hay nhà cung cấp cuối cùng ở vị trí
bắt đầu của chuỗi cung ứng mở rộng.
Nhóm 2: khách hàng của các khách hàng hay khách hàng cuối cùng ở vị trí kết8
Hugos Michael H (2011), Essentials of supply chain management, Nhà xuất bản John Wiley & Sons,
trang 21.9
- thúc của chuỗi cung ứng.
Nhóm 3: tổng thể các công ty cung cấp dịch vụ cho những công ty khác trong
chuỗi cung ứng. Đây là các công ty cung cấp dịch vụ về hậu cần, tài chính, tiếp thị và
công nghệ thông tin.
Trong chuỗi cung ứng có sự kết hợp của một số công ty thực hiện những chức
năng khác nhau. Những công ty đó là nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán sỉ, nhà bán
lẻ và khách hàng cá nhân hay khách hàng là tổ chức. Những công ty thứ cấp này sẽ có
nhiều công ty khác nhau cung cấp hàng loạt những dịch vụ cần thiết.
+ Nhà sản xuất
Nhà sản xuất là các tổ chức sản xuất ra sản phẩm. Nhà sản xuất bao gồm những
công ty sản xuất nguyên vật liệu và công ty sản xuất thành phẩm. Các nhà sản xuất
nguyên vật liệu như khai thác khoáng sản, khoan tìm dầu khí, cưa gỗ. . . và cũng bao
gồm những tổ chức trồng trọt, chăn nuôi hay đánh bắt thuỷ hải sản. Các nhà sản xuất
thành phẩm sử dụng nguyên vật liệu và các bộ phận lắp ráp được sản xuất ra từ các
công ty khác.
+ Nhà phân phối
Nhà phân phối là những công ty tồn trữ hàng với số lượng lớn từ nhà sản xuất và
phân phối sản phẩm đến khách hàng. Nhà phân phối cũng được xem là nhà bán sỉ.
Nhà phân phối bán sản phẩm cho những nhà kinh doanh khác với số lượng lớn hơn so
với khách hàng mua lẻ. Do sự biến động nhu cầu về sản phẩm, nhà phân phối tồn trữ
hàng hóa, thực hiện bán hàng và phục vụ khách hàng.
Một nhà phân phối điển hình là một tổ chức sở hữu nhiều sản phẩm tồn kho mua
từ nhà sản xuất và bán lại cho người tiêu dùng. Ngoài khuyến mãi sản phẩm và bán
hàng, có những chức năng khác mà nhà phân phối phải thực hiện là quản lý tồn kho,
vận hành cửa hàng, vận chuyển sản phẩm cũng như chăm sóc khách hàng.
Nhà phân phối cũng là một tổ chức chỉ đại diện bán hàng giữa nhà sản xuất và
khách hàng, không bao giờ sở hữu sản phẩm đó. Loại nhà phân phối này thực hiện
chức năng chính yếu là khuyến mãi và bán sản phẩm.
Với cả hai trường hợp này, nhà phân phối là đại lý nắm bắt liên tục nhu cầu của
khách hàng, làm cho khách hàng mua sản phẩm từ các công ty sản xuất.
+ Nhà bán lẻ
Nhà bán lẻ tồn trữ sản phẩm và bán cho khách hàng với số lượng nhỏ hơn. Nhà
bán lẻ trong khi bán hàng cũng nắm bắt ý kiến và nhu cầu của khách hàng rất chi tiết.
Do nỗ lực chính là thu hút khách hàng đối với những sản phẩm mình bán, nhà bán lẻ
thường quảng cáo và sử dụng một số kỹ thuật kết hợp về giá cả, sự lựa chọn và sự tiện
dụng của sản phẩm.10
- Hình 1.7: Cấu trúc chuỗi cung ứng
+ Khách hàng
Khách hàng hay người tiêu dùng là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào mua và sử dụng
sản phẩm. Khách hàng là tổ chức có thể mua một sản phẩm để kết hợp với sản phẩm
khác rồi bán chúng cho khách hàng khác là người sử dụng sản phẩm sau mua sản
phẩm về tiêu dùng.
+ Nhà cung cấp dịch vụ
Đó là những tổ chức cung cấp dịch vụ cho nhà sản xuất, nhà phân phối, nhà bán
lẻ và khách hàng. Nhà cung cấp dịch vụ có những chuyên môn và kỹ năng đặc biệt ở
một hoạt động riêng biệt trong chuỗi cung ứng. Chính vì thế, họ có thể thực hiện
những dịch vụ này hiệu quả hơn và với mức giá tốt hơn so với chính các nhà sản xuất,
nhà phân phối, nhà bán lẻ hay người tiêu dùng làm điều này.
Trong bất kỳ chuỗi cung ứng nào, nhà cung cấp phổ biến nhất là cung cấp dịch
vụ vận tải và dịch vụ nhà kho. Đây là các công ty xe tải và công ty kho hàng và
thường được biết đến là nhà cung cấp hậu cần.11
- Nhà cung cấp dịch vụ tài chính cung cấp các dịch vụ như cho vay, phân tích tính
dụng và thu các khoản nợ đáo hạn. Đó chính là ngân hàng, công ty định giá tín dụng
và công ty thu nợ.
Một số nhà cung cấp thực hiện nghiên cứu thị trường, quảng cáo, thiết kế sản
phẩm, dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ pháp lý và tư vấn quản lý. . .CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tại sao phải quản trị chuỗi cung ứng?
2. Tích hợp chuỗi cung ứng là gì? Tại sao phải tích hợp chuỗi cung ứng?
3. Ví dụ về một chuỗi cung ứng phát triển qua thời gian?12
- Chương 2: CÁC QUY TRÌNH CỦA CHUỖI CUNG ỨNG: HOẠCH ĐỊNH VÀ
THU MUA
2.1 Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp – ERP
Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp ERP (Enterprise Resource
Planning) miêu tả một hệ thống phần mềm có khả năng tích hợp các chương trình ứng
dụng khác nhau như tài chính, sản xuất, logistics, bán hàng và tiếp thị, nhân sự và các
chức năng khác của doanh nghiệp. Tại hầu hết các doanh nghiệp, ERP cung cấp
những thông tin dữ liệu cốt lõi cần thiết cho việc vận hành hàng ngày của công ty.
Những hệ thống này hỗ trợ các chức năng hoạch định và kiểm soát thông thường, cụ
thể như dự báo, hoạch định bán hàng và vận hành, quản trị tồn kho, hoạch định nhu
cầu nguyên vật liệu, và thiết lập lịch trình cho trung tâm công việc.
Khái niệm “hoạch định nguồn lực doanh nghiệp” (ERP) có thể được hiểu theo
nhiều cách khác nhau phụ thuộc vào cách nhìn của từng đối tượng. Dưới góc độ của
nhà quản lý, trọng tâm của khái niệm này chính là từ “hoạch định”, ERP đại diện cho
một giải pháp phần mềm toàn diện nhằm hỗ trợ những quyết định đồng nhất trong
công tác lập kế hoạch và kiểm soát doanh nghiệp. Ở góc độ khác, đối với cộng đồng
công nghệ thông tin, ERP là cụm từ miêu tả một hệ thống phần mềm có khả năng tích
hợp các chương trình ứng dụng khác nhau như tài chính, sản xuất, logistics, bán hàng
và tiếp thị, nhân sự và các chức năng khác của doanh nghiệp. Sự tích hợp này đạt
được nhờ vào hệ thống cơ sở dữ liệu được chia sẻ giữa các phòng ban và thông qua
các ứng dụng xử lý dữ liệu.
Hệ thống phần mềm ERP được cho là chất lượng cần đáp ứng được 4 điều kiện
sau:
– Quy mô phần mềm phải mang tính đa chức năng
Phần mềm cần có khả năng theo dõi các kết quả tài chính ứng với đơn vị tiền tệ,
hoạt động mua sắm ứng với đơn vị nguyên vật liệu, hoạt động bán hàng ứng với đơn
vị sản phẩm và dịch vụ, các quy trình sản xuất hoặc chuyển đổi ứng với đơn vị nguồn
lực hoặc con người. Tóm lại, một phần mềm ERP xuất sắc cần phải cung cấp được
những dữ liệu sát thực nhất với nhu cầu của từng nhân viên cần thiết cho công việc
hàng ngày của họ. Hình 2.1 thể hiện quy mô các ứng dụng có thể được thực hiện trong
phần mềm ERP.
– Phần mềm cần mang tính tích hợp
Khi một giao dịch hay một mẩu dữ liệu thể hiện bất kỳ hoạt động nào của doanh
nghiệp được nhập vào hệ thống, các thông số dữ liệu có liên quan đến hoạt động đó
cũng phải đồng thời tự động được cập nhật. Tính năng này loại bỏ việc doanh nghiệp13
- phải tự điều chỉnh dữ liệu trong hệ thống. Tính năng tích hợp giúp đảm bảo một tầm
nhìn chung cho toàn công ty – tính đồng bộ.
– Phần mềm cần phải mang cấu trúc module (được xây dựng từ các đơn vị
hay kích thức đã được tiêu chuẩn) cho phép việc kết hợp nó vào một hệ thống mở
rộng đơn lẻ tập trung vào một chức năng duy nhất, hoặc liên kết với các phần mềm từ
các nguồn/ứng dụng khác.
– Phần mềm phải hỗ trợ được cho các hoạt động hoạch định và kiểm soát cơ bản,
bao gồm việc dự báo, hoạch định sản xuất và quản trị tồn kho.Hình 2.1: Quy mô các ứng dụng ERP
2.2 Dự báo nhu cầu
2.2.1 Khái niệm
Dự báo được hiểu là việc ước lượng một sự kiện hoặc một điều kiện nào đó
trong tương lai vốn nằm ngoài khả năng kiểm soát của tổ chức nhằm cung cấp cơ sở
cho việc ra quyết định9.
Dự báo là một khoa học và nghệ thuật nhằm tiên đoán những sự việc sẽ xảy ra
trong tương lai, trên cơ sở phân tích khoa học về các dữ liệu đã thu thập được. Tính
khoa học của dự báo thể hiện ở chỗ: để có được kết quả dự báo người ta dựa vào số9
Nguyễn Trọng Hoài, Phùng Thanh Bình và Trần Khánh Duy (2014), Dự báo và phân tích dữ liệu trong kinh tế
và tài chính, Xuất bản lần thứ 1, Nhà xuất bản Tài chính, Việt Nam, Trang 1814
- liệu thu thập được ở kỳ trước kết hợp với những phương pháp toán học hay những mô
hình dự báo tiên tiến. Tính nghệ thuật thể hiện: Có nhiều phương pháp dự báo khác
nhau và kết quả dự báo cũng khác nhau, việc lựa chọn và sử dụng phương pháp hay
điều chỉnh kết quả dự báo là nghệ thuật của người dự báo.
Dự báo có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động cung ứng. Nó giúp giảm
chi phí hoạt động, tăng năng suất, tăng hiệu quả hoạt động cung ứng nói riêng, hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung. Dự báo giúp ước tính được số
lượng sản phẩm cần sản xuất, từ đó xác định nhu cầu nguyên vật liệu, lập được kế
hoạch cung ứng, dự trữ nguyên vật liệu. Nếu dự báo không chính xác có thể gây ra
cạn dự trữ, thiếu hụt nguyên vật liệu, phản ứng kém với những biến động của thị
trường, sụt giảm doanh số, giảm lợi nhuận (dự báo thiếu), tăng chi phí tồn kho (dự báo
dư).
2.2.2 Các phương pháp dự báo
Có hai nhóm phương pháp dự báo: dự báo định tính và dự báo định lượng.
2.2.2.1 Các phương pháp dự báo định tính
Các phương pháp dự báo định tính là các phương pháp dự báo bằng cách phân
tích định tính dựa vào suy đoán, cảm nhận. Các phương pháp này phụ thuộc nhiều vào
trực giác, kinh nghiệm và sự nhạy cảm của nhà quản trị, của những chuyên gia, khách
hàng, người bán hàng, người quản lý. Phương pháp định tính thường được sử dụng
khi dữ liệu lịch sử không có sẵn hoặc có nhưng không đầy đủ, hoặc không đáng tin
cậy, hoặc những đối tượng dự báo bị ảnh hưởng bởi những nhân tố không thể lượng
hóa được như sự thay đổi tiến bộ kỹ thuật.
Hiện nay, phương pháp dự báo định tính được chấp nhận ở nhiều nơi nên vẫn
còn sử dụng phổ biến. Thậm chí, khi có các công cụ thống kê, thì phán đoán cá nhân
vẫn là sự lựa chọn cho nhiều nhà quản lý cấp cao vì đơn giản, không yêu cầu người dự
báo phải am hiểu về mô hình toán, mô hình thống kê hoặc kinh tế lượng, dễ thực hiện
thời gian nghiên cứu dự báo nhanh, chi phí dự báo thấp và kết quả dự báo trong nhiều
trường hợp cũng rất tốt. Tuy nhiên, kết quả dự báo định tính dựa vào ý kiến chủ quan
nên dễ bị sai lệch, không chính xác một cách ổn định theo thời gian, không có phương
pháp hệ thống để cải thiện mức độ chính xác và đòi hỏi người dự báo phải tích lũy
kinh nghiệm trong một thời gian dài.
Sau đây là một số phương pháp dự báo định tính chủ yếu:
(i) Lấy ý kiến của ban quản lý điều hành
Đây là phương pháp dự báo được sử dụng khá rộng rãi. Trong phương pháp
này, cần lấy ý kiến của các nhà quản trị cao cấp, những người phụ trách các công việc15
- quan trọng thường hay sử dụng các số liệu thống kê, chỉ tiêu tổng hợp của doanh
nghiệp. Ngoài ra cần lấy thêm ý kiến đánh giá của các cán bộ điều hành marketing, kỹ
thuật, tài chính và sản xuất.
Phương pháp này sử dụng được trí tuệ và kinh nghiệm của những cán bộ trực
tiếp liên quan đến hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là mang yếu tố
chủ quan và ý kiến của những người có chức vụ cao nhất thường chi phối ý kiến của
những người khác.
(ii) Phương pháp lấy ý kiến của lực lượng bán hàng
Những người bán hàng là người hiểu rõ nhu cầu và thị hiếu của người tiêu
dùng. Họ có thể dự báo được lượng hàng hoá, dịch vụ có thể bán được trong tương lai
tại khu vực mình bán hàng. Tập hợp ý kiến của nhiều người bán hàng tại nhiều khu
vực khác nhau, có thể dự báo nhu cầu hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp.
Phương pháp này có nhược điểm là phụ thuộc vào đánh giá chủ quan của người
bán hàng. Một số người bán hàng thường có xu hướng đánh giá thấp lượng hàng hoá,
dịch vụ bán được để dễ đạt định mức, ngược lại một số khác lại chủ quan dự báo ở
mức quá cao để nâng danh tiếng của mình.
(iii) Phương pháp nghiên cứu thị trường người tiêu dùng
Đây là phương pháp lấy ý kiến khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng
của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu thường do bộ phận nghiên cứu thị trường thực
hiện bằng nhiều hình thức như tổ chức các cuộc điều tra lấy ý kiến của khách hàng,
phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại, gửi phiếu điều tra tới gia đình hoặc cơ
sở tiêu dùng.
Phương pháp nghiên cứu thị trường người tiêu dùng giúp doanh nghiệp không
chỉ chuẩn bị dự báo nhu cầu của khách hàng mà còn có thể hiểu được những đánh giá
của khách hàng về sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp để có biện pháp cải tiến, hoàn
thiện cho phù hợp. Tuy nhiên, phương pháp này đòi hỏi tốn kém về tài chính, thời
gian và phải có sự chuẩn bị công phu trong việc xây dựng câu hỏi. Đôi khi phương
pháp này cũng vấp phải khó khăn là ý kiến của khách hàng không xác thực hoặc quá
lý tưởng.
(iv) Phương pháp chuyên gia
Phương pháp chuyên gia là phương pháp thu thập và xử lý những đánh giá dự
báo bằng cách tập hợp và hỏi ý kiến các chuyên gia thuộc một lĩnh vực hẹp của khoa
học – kỹ thuật hoặc sản xuất.
Phương pháp chuyên gia dựa trên cơ sở đánh giá tổng kết kinh nghiệm, khả
năng phản ánh tương lai một cách tự nhiên của các chuyên gia và xử lý thống kê các
câu trả lời một cách khoa học. Nhiệm vụ của phương pháp là đưa ra những dự báo16
- khách quan về tương lai phát triển của khoa học kỹ thuật hoặc sản xuất dựa trên việc
xử lý có hệ thống các đánh giá dự báo của các chuyên gia.
Phương pháp chuyên gia được áp dụng đặc biệt có hiệu quả trong các trường
hợp sau đây:
– Khi đối tượng dự báo có tầm bao quát lớn phụ thuộc nhiều yếu tố mà hiện tại
còn chưa có hoặc thiếu những cơ sở lý luận chắc chắn để xác định.
– Trong điều kiện còn thiếu thông tin và những thống kê đầy đủ, đáng tin cậy
về đặc tính của đối tượng dự báo.
– Trong điều kiện có độ bất định lớn của đối tượng dự báo, độ tin cậy thấp về
hình thức thể hiện, về chiều hướng biến thiên về phạm vi cũng như quy mô và cơ cấu.
– Khi dự báo trung hạn và dài hạn đối tượng dự báo chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố, phần lớn là các nhân tố rất khó lượng hoá đặc biệt là các nhân tố thuộc về tâm
lý xã hội (thị hiếu, thói quen, lối sống, đặc điểm dân cư…) hoặc tiến bộ khoa học kỹ
thuật. Vì vậy trong quá trình phát triển của mình đối tượng dự báo có nhiều đột biến
về quy mô và cơ cấu mà nếu không nhờ đến tài nghệ của chuyên gia thì mọi sự trở
nên vô nghĩa.
– Trong điều kiện thiếu thời gian, hoàn cảnh cấp bách phương pháp chuyên gia
cũng được áp dụng để đưa ra các dự báo kịp thời.
Quá trình áp dụng phương pháp chuyên gia có thể chia làm ba giai đoạn lớn:
– Lựa chọn chuyên gia
– Trưng cầu ý kiến chuyên gia;
– Thu thập và xử lý các đánh giá dự báo.
Chuyên gia là người thấy rõ nhất những mâu thuẫn và những vấn đề tồn tại
trong lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời về mặt tâm lý họ luôn luôn hướng về
tương lai để giải quyết những vấn đề đó dựa trên những hiểu biết sâu sắc, kinh nghiệm
sản xuất phong phú và linh cảm nghề nghiệp nhạy bén.
Nói chung, để đảm bảo tính chính xác, công tác dự báo cần kết hợp giữa
phương pháp dự báo định tính và định lượng.
2.2.2.2. Các phương pháp dự báo định lượng
Phương pháp dự báo theo dãy số thời gian được xây dựng trên một giả thiết về
sự tồn tại và lưu lại các nhân tố quyết định đại lượng dự báo từ quá khứ đến tương lai.
Trong phương pháp này đại lượng cần dự báo được xác định trên cơ sở phân tích
chuỗi các số liệu về nhu cầu sản phẩm (dòng nhu cầu) thống kê được trong quá khứ.
Như vậy thực chất của phương pháp dự báo theo dãy số thời gian là kéo dài
quy luật phát triển của đối tượng dự báo đã có trong quá khứ và hiện tại sang tương lai17