Lớp 12Ngữ Văn

Cảm nhận đoạn trích Bây giờ Mị cũng không nói

Tuyển chọn những bài văn hay chủ đề Cảm nhận đoạn trích Bây giờ Mị cũng không nói. Các bài văn mẫu được biên soạn, tổng hợp chi tiết, đầy đủ từ các bài viết hay, xuất sắc nhất của các bạn học sinh trên cả nước. Mời các em cùng tham khảo nhé! 

Đoạn trích:
“Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt phía trong vách. A Sử đang sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. Nó nhìn quanh, thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi:

– Mày muốn đi chơi à?

Bạn đang xem: Cảm nhận đoạn trích Bây giờ Mị cũng không nói

Mị không nói. A Sử cũng không thèm hỏi thêm. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói tay hai Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.

Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe thấy tiếng sáo đưa Mị theo những cuộc chơi, những đám chơi.” Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào.. “. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Chó sủa xa xa. Chừng đã khuya. Lúc này là lúc trai đang đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi. Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi.

Cả đêm ấy Mị phải trói đứng như thế. Lúc thì khắp người bị dây trói thít lại, đau nhức. Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ. Hơi rượu tỏa. Tiếng sáo. Tiếng chó sửa xa xa. Mỵ lúc mê, lúc tình. Cho tới khi trời tang tảng rồi không biết sáng từ bao giờ.

Mị bàng hoàng tỉnh. Buổi sáng âm sâm trong cái nhà gỗ rộng. Vách bên cũng im ắng. Không nghe tiếng lửa réo trong lò nấu lợn. Không một tiếng động. Không biết bên buồng quanh đấy, các chị vợ anh, vợ chú của A Sử có còn ở nhà, không biết tất cả những người đàn bà khốn khổ sa vào nhà quan đã được đi chơi hay cũng đang phải trói như Mị. Mị không thể biết. Ðời người đàn bà lấy chồng nhà giàu ở Hồng Ngài, một đời người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng. Mị chợt nhớ lại câu chuyện người ta vẫn kể: Đời trước, ở nhà thống lý Pá Tra có người trói vợ trong nhà ba ngày rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi. Mị sợ quá, Mị cựa quậy, xem mình còn sống hay chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói siết lại, đau đứt từng mảnh thịt.

Nội dung

Cảm nhận đoạn trích: Bây giờ Mị cũng không nói – Mẫu 1

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” được xem là một trong những bằng chứng tố cáo đánh thép tội ác của chế độ phong kiến cũ nát đè lên vai người phụ nữ nói chung và nhân vật Mị nói riêng. Hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm đã được Tô Hoài khắc họa rất thành công cả về hình thức lẫn tâm hồn.

Tô Hoài là một trong những nhà văn hiếm hoi trong làng văn học Việt Nam khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của ông không chỉ có vẻ đẹp về mặt hình thức mà nội tâm nhân vật cũng rất sâu sắc. Ta có thể nhận thấy điều này thông qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Qua miêu tả của Tô Hoài thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những tưởng cuộc đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương. Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước đường cùng. 

Khi mà gia đình cô vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá tra để mua một nương ngô làm kế sinh nhai nhưng làm hết năm này qua năm khác vẫn chưa trả hết nợ. Cực chẳng đã bố mẹ phải gán Mị cho nhà Thống lí để trả hết nợ. Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan cô phải đối mặt với bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng không có lấy một ngày nhàn hạ. Người ta thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm này qua năm khác chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngoài mờ ảo không biết là sương hay là khói. Mị đã từ một cô gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu. Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống Lí. Và từ khi cha chết thì mị cũng không còn buồn. 

Tưởng rằng Mị cứ sống lầm lũi đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi. Nhưng không đã trong tiềm thức của Mị lòng ham sống, khát vọng tự do, hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy và chỉ cần có chất xúc tác là bùng lên một cách mãnh liệt. Còn nhớ trong những ngày đầu Mị bị bắt về làm dâu nhà Thống Lí cô đã năm lần bảy lượt tìm cách trốn đi và ăn lá ngón để tự tử. Nhưng với lòng hiếu thảo dành cho cha Mị đã không đành lòng làm việc đó mà chấp nhận sống một cuộc sống lầm lũi sống mà như đã chết. Nhưng Mị phải đâu đã an phận chấp nhận cuộc sống đầy đen tối mà gặp cơ hội thuận lợi là lòng ham sống lại được thắp lên. Khi “đêm tình mùa xuân” đến Mị lại muốn được mặc váy đẹp, lại muốn đi theo tiếng sáo gọi bạn. Mị chuẩn bị sửa soạn quần áo, chải đầu tóc để đi hội. Trong đầu Mị hiện lên suy nghĩ Mị muốn được đi chơi. Để rồi khi Mị vẫn đang thả hồn với mùa xuân thì Mị đã bị A Sử trói vào cột nhà. Lúc ấy tuy đau đớn nhưng Mị vẫn đang thả hồn mình theo những đám chơi xuân nên không còn cảm nhận được nỗi đau nữa. 

Có thể nói đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm hội mùa xuân là đoạn văn hay và xúc động nhất trong tác phẩm. Nó đã thể hiện được diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị với thủ pháp tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa nội tâm đầy màu sắc và thực tại cay đắng. Khiến cho nhân vật Mị được hiện lên rõ nét hơn trong mắt người đọc. Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Chính hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ khi bị trói trước sân đã thức tỉnh Mị một lần nữa vùng lên chống lại áp bức bất công. Mị lại trở về là Mị ngày trước với niềm ham sống mãnh liệt khát khao được làm chủ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ đã cùng dắt tay nhau đến với vùng đất của tự do. Thông qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã khắc họa rất thành công hình ảnh người phụ nữ vùng cao. Hiền lành, chất phác, yêu lao động và đặc biệt cũng rất mạnh mẽ biết vùng lên chống lại ách áp bức bóc lột tìm lại cuộc sống tự do của chính mình. Tô Hoài là một trong những nhà văn hiếm hoi trong làng văn học Việt Nam khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ. Hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm của ông không chỉ có vẻ đẹp về mặt hình thức mà nội tâm nhân vật cũng rất sâu sắc. Ta có thể nhận thấy điều này thông qua hình tượng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. 

Qua miêu tả của Tô Hoài thì Mị là một cô gái sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những tưởng cuộc đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương. Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước đường cùng. Khi mà gia đình cô vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá tra để mua một nương ngô làm kế sinh nhai nhưng làm hết năm này qua năm khác vẫn chưa trả hết nợ. Cực chẳng đã bố mẹ phải gán Mị cho nhà Thống lí để trả hết nợ. Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan cô phải đối mặt với bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng không có lấy một ngày nhàn hạ. Người ta thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm này qua năm khác chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngoài mờ ảo không biết là sương hay là khói. Mị đã từ một cô gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu. 

Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống Lí. Và từ khi cha chết thì mị cũng không còn buồn. Tưởng rằng Mị cứ sống lầm lũi đợi ngày chết rũ xương ở đây thôi. Nhưng không đã trong tiềm thức của Mị lòng ham sống, khát vọng tự do, hạnh phúc vẫn âm ỉ cháy và chỉ cần có chất xúc tác là bùng lên một cách mãnh liệt. Còn nhớ trong những ngày đầu Mị bị bắt về làm dâu nhà Thống Lí cô đã năm lần bảy lượt tìm cách trốn đi và ăn lá ngón để tự tử. Nhưng với lòng hiếu thảo dành cho cha Mị đã không đành lòng làm việc đó mà chấp nhận sống một cuộc sống lầm lũi sống mà như đã chết. Nhưng Mị phải đâu đã an phận chấp nhận cuộc sống đầy đen tối mà gặp cơ hội thuận lợi là lòng ham sống lại được thắp lên. 

Khi “đêm tình mùa xuân” đến Mị lại muốn được mặc váy đẹp, lại muốn đi theo tiếng sáo gọi bạn. Mị chuẩn bị sửa soạn quần áo, chải đầu tóc để đi hội. Trong đầu Mị hiện lên suy nghĩ Mị muốn được đi chơi. Để rồi khi Mị vẫn đang thả hồn với mùa xuân thì Mị đã bị A Sử trói vào cột nhà. Lúc ấy tuy đau đớn nhưng Mị vẫn đang thả hồn mình theo những đám chơi xuân nên không còn cảm nhận được nỗi đau nữa. Có thể nói đoạn văn miêu tả tâm trạng Mị trong đêm hội mùa xuân là đoạn văn hay và xúc động nhất trong tác phẩm. Nó đã thể hiện được diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị với thủ pháp tương phản giữa quá khứ và hiện tại, giữa nội tâm đầy màu sắc và thực tại cay đắng. Khiến cho nhân vật Mị được hiện lên rõ nét hơn trong mắt người đọc. Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Chính hình ảnh giọt nước mắt của A Phủ khi bị trói trước sân đã thức tỉnh Mị một lần nữa vùng lên chống lại áp bức bất công. Mị lại trở về là Mị ngày trước với niềm ham sống mãnh liệt khát khao được làm chủ cuộc sống của mình. Mị và A Phủ đã cùng dắt tay nhau đến với vùng đất của tự do.

Thông qua hình tượng nhân vật Mị, Tô Hoài đã khắc họa rất thành công hình ảnh người phụ nữ vùng cao. Hiền lành, chất phác, yêu lao động và đặc biệt cũng rất mạnh mẽ biết vùng lên chống lại ách áp bức bóc lột tìm lại cuộc sống tự do của chính mình.

Cảm nhận đoạn trích Bây giờ Mị cũng không nói

Cảm nhận đoạn trích: Bây giờ Mị cũng không nói – Mẫu 2

Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài trong giai đoạn sáng tác sau Cách mạng tháng Tám năm 1945. Nội dung kể về cuộc đời đầy biến cố của đôi vợ chồng trẻ người Mông là Mị và A Phủ trong chế độ thực dân, phong kiến. Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc có ý nghĩa khái quát cao, tiêu biểu cho cuộc sống đau khổ, tủi nhục và quá trình vùng lên tự giải phóng của đồng bào miền núi Tây Bắc.

Tô Hoài là một trong những tấm gương sáng về tinh thần lao động sáng tạo, về công phu rèn luyện tay nghề của một người viết văn xuôi ở Việt Nam. Ông đã có hơn nửa thế kỷ cầm bút. Ông đã được chủ tịch nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I -1996).

Nhà văn đã gởi đến chúng ta một khối lượng tác phẩm nhiều đến mức đáng khâm phục: hơn 100 quyển sách với nhiều thể loại khác nhau. Tuy nhiên những trang viết thực sự đạt chất lượng cao của cây bút này thể hiện ở ba mảng đề: đề tài miền núi Tây Bắc, đề tài vùng ven thành Hà Nội và các đề tài dành cho thiếu nhi.

Chỉ xét riêng về đề tài miền núi Tây Bắc, truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” trong tập truyện Tây Bắc (1953) là một thành tựu nổi bật của Tô Hoài. Trong tác phẩm này, nhà văn đã xây dựng thành công xuất sắc hình tượng nhân vật Mị, đặc biệt là đoạn cô bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra đến khi trốn khỏi Hồng Ngài.

Mị là một cô gái đẹp được sinh ra từ núi rừng Tây Bắc. Cô mang trong mình những nét tính cách của người con gái dân tộc thiểu số chất phác và hiền lành, chịu khó. Dù sinh ra trong một gia đình nghèo khó nhưng Mị vẫn rất lạc quan và yêu đời. Mị trông xinh tươi mơn mởn như một đóa hoa rừng ngập tràn xuân sắc. Cô không chỉ đẹp mà còn rất tài năng. Có tài thổi lá hay như thổi sáo nên biết bao người say mê hàng ngày đi theo bước chân của Mị. Những tưởng cuộc đời cô gái cứ thế trôi qua êm đềm và cô sẽ sớm tìm được bến đỗ yêu thương.

Nhưng xã hội phong kiến cùng với những hủ tục lạc hậu đã đẩy Mị tới bước đường cùng. Khi mà gia đình cô vì nghèo khó đã phải vay tiền nhà Thống lí Pá tra để mua một nương ngô làm kế sinh nhai nhưng làm hết năm này qua năm khác vẫn chưa trả hết nợ, đến chết vẫn chưa trả hết nợ.

Vào một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách mà cứ ngỡ là tiếng hò hẹn của người yêu, Mị bèn nhấc tấm vách gỗ thì bị A Sử bắt về làm vợ, làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra. Bao nhiêu mộng đẹp của lứa tuổi xuân thì mơn mởn bị chôn vùi.

Từ khi bắt đầu về làm dâu là Thống lí bao nhiêu mơ ước của cuộc đời tiêu tan bởi cô phải đối mặt với bi kịch của người phụ nữ làm dâu nhà giàu nhưng không có lấy một ngày nhàn hạ. Người ta thấy Mị lầm lũi trong xó cửa như một con rùa. Năm này qua năm khác chôn chân trong căn phòng nhỏ kín mít chỉ có một chiếc cửa sổ bé tý nhìn ra bên ngoài mờ ảo không biết là sương hay là khói.

Sở dĩ Mị an phận như thế là do bọn thống lý Pá Tra đã đưa vào đầu óc cô những tư tưởng mê tín dị đoan khá cay độc. Ở dân tộc H’mông thời trước có những hủ tục: người con gái khi bị “trình ma” thì coi như cuộc đời trở nên đen tối từ lúc ấy: nếu chẳng may chồng chết thì người ấy phải làm vợ người khác trong nhà, có khi là một người anh chồng già lụ khụ, có khi là một người em chồng còn ở tuổi trẻ con. Và nếu chồng lại chết, lại vẫn phải ở với người đàn ông khác trong nhà ấy! Do đó, Mị đã tin một cách tuyệt đối: ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi.

Mị đã từ một cô gái trẻ trung yêu đời phơi phới để trở thành một người đàn bà cam chịu. Quanh năm suốt tháng phải làm việc quần quật. Thậm chí “Con ngựa, con trâu làm có có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ. Đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu vào việc cả đêm lẫn ngày”. Nghĩa là cuộc sống của Mị lúc này còn cực khổ hơn cả trâu ngựa trong nhà Thống Lí.

Thế nhưng, Mị là một cô gái có sức sống tiềm tàng, một khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Không có sự bạo tàn nào vùi dập, trói buộc nổi, nhất là khi được ngoại cảnh tác động. Khi mùa xuân tràn về các làng Mèo, trai gái tụ tập bên nhau nô đùa, nhảy múa, thổi sáo gọi bạn tình, Mị đã sống lại những chuỗi ngày tự do. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Ngồi trong căn phòng tăm tối, Mị lén uống rượu uống ừng ực từng bát mà bên tai vẫn văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng. Dù chẳng năm nào A Sử cho cô đi chơi tết, nhưng cô rất khao khát được đi như bao cô gái khác cùng trang lứa.

Hành động của Mị tới chỗ góc nhà lấy ống mỡ, xoắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng, chứng tỏ cô không cam chịu bóng tối ngột ngạt, u ám của kiếp nô lệ phong kiến. Trong phút giây, Mị đã quên đi cảnh ngộ thực tại để hành động theo tiếng gọi giục giã, tha thiết, rạo rực, cháy bỏng từ trái tim khát khao hạnh phúc, tình yêu của bản thân mình, Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách chuẩn bị đi chơi

Vậy mà nghiệt ngã thay, khi Mị toan bước đi thì bị A Sử kéo lại, chẳng nói chẳng rằng liền trói Mị vào cột nhà. Và bây giờ Mị khóc, khóc cho cái oan trái của một kiếp người khao khát muốn sống, muốn yêu mà lại bị ghì chặt vào một cuộc sống “không bằng con ngựa”. Men rượu làm cho Mị say, Mị mơ màng giữa ý thức và thực tại cho nên cô định “vùng bước đi. Nhưng chân tay đau không cựa được. Mị không còn nghe thấy tiếng sáo nữa”…

Chính thực tại đã bóp nghẹt những khát vọng tươi sáng. Khi phân tích nhân vật Mị trong đêm tình mùa đông, ta nhận thấy rằng chính kết cục ấy đã nói lên rằng, chỉ có những phản kháng tự phát thì nhân vật không thể tự giải thoát cho mình, đồng thời nó cũng bắt đầu khơi dậy cho những cuộc nổi loạn trong tương lai của nhân vật.

Sức sống mãnh liệt của Mị lại được trỗi dậy khi gặp A Phủ. Hình ảnh A Phủ bị trói đứng một lần nữa lại đánh thức nơi Mị nỗi tủi nhục của thân phận “không bằng con ngựa” của mình đồng thời khơi dậy lòng trắc ẩn tiềm tàng trong cô.

A Phủ là một chàng trai tràn trề sinh lực, lao động giỏi, con nhà nghèo, bố mẹ chết sớm, lưu lạc đến Hồng Ngài làm thuê, do cùng bọn con trai làng sinh sự đánh nhau với A Sử vào dịp chơi tết. A Phủ bị “bắt sống, trói gô chân tay lại” khiêng về nhà Thống lý. Từ đó, anh phải đi ở trừ nợ cho nhà Pá Tra. Trong một lần chăn bò, chẳng may hổ ăn thịt mất một con bò, Pá Tra đẩy A Phủ vào cột, hai tay bắt ôm quặt lên. Rồi dây mây quấn từ chân lên vai, sang hôm sau Pá Tra quẳng thêm một vòng thòng lọng vào cổ. Thế là A Phủ không cúi, không còn lúc lắc được nữa”.

Nhìn cảnh ngộ A Phủ lúc đầu, Mị hãy còn thái độ thản nhiên, sau đó, trông thấy thứ ngôn ngữ câm lặng phát ra từ dòng nước mắt của A Phủ, cô xúc động, thương cảm và đồng cảm với anh. Đồng thời, giọt nước mắt ấy như tiếng gọi thiêng liêng của tính giai cấp và ý thức phản kháng đối với Mị: Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên, Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng như thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được.

Trời ơi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cỡ chừng này là đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Vì thế, Mị liền hành động một cách táo bạo, “phiến loạn” quyết liệt. Cô cởi trói cho A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài, chạy sang Phiềng Sa: Lúc ấy, trong cảnh nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt, nhưng Mị tưởng A Phủ đương biết có người bước lại. Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phì từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng: ”đi ngay…” rồi Mị nghẹn lại, A Phủ bỗng khụy xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy. Mị đứng lặng trong bóng tối.

Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm, nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy (…) và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Hành động trên đây có xuất phát từ tấm lòng “thương người như thể thương thân”, từ sự thôi thúc cấp bách của cảnh ngộ hiện tại, từ tiếng gọi thiêng liêng, bất tử của cuộc sống độc lập – tự do.

Cô cởi trói cho A Phủ cũng là từ cởi trói xiềng xích đang đè nặng lên chính cuộc đời của mình. Cứu A Phủ không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo người mà mình vừa cứu. Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái yếu ớt dám chống lại cả cường quyền và thần quyền.

Thật đáng biểu dương làm sao cho hình ảnh hai con người trẻ tuổi, nhựa sống mãnh liệt bị phong kiến trói đứng rồi vùng dậy một cách quyết liệt, bật tung như quả bom to đang ra sức tung phá giữa khu vực cần phải hủy diệt.

Đúng như một nhà nghiên cứu văn học đã nhận xét: Không ai trói buộc được sự sống, kìm hãm được sự sống cũng như không ai nỡ trách bông hạnh nở vươn ra ngoài tường khi sắc xuân đầy rẫy ngoài trời. Tóm lại, Mị là một hình tượng nhân vật phụ nữ có tính chất điển hình cho mảng truyện viết về đề tài miền núi Tây Bắc dưới ách phong kiến và thực dân đô hộ của nhà văn Tô Hoài nói riêng cũng như của dòng văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 nói chung.

Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.

Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng người đọc vẻ đẹp của lòng nhân đạo, tình yêu thương đồng cảm sâu sắc với những kiếp người nghèo khổ. Qua nhân vật Mị nhà văn đã làm hiện lên vẻ đẹp của một sức sống tiềm tàng mãnh liệt của người phụ nữ miền núi nói riêng và người phụ nữ Việt Nam nói chung. Sức sống tiềm tàng ấy giúp nhà văn khẳng định được sức mạnh của tâm hồn con người Việt Nam và chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị. Đây chính là cuộc đấu tranh đi lên từ tự phát đến tự giác theo ánh sáng của cách mạng. Đó là giá trị nhân văn ngời sáng của tác phẩm.

Cảm nhận đoạn trích: Bây giờ Mị cũng không nói – Mẫu 3

Nhắc đến Tô Hoài là nhắc đến một cây bút với khả năng sáng tác dồi dào, phong phú ở nhiều thể loại, mà ở thể loại nào ông cũng để lại những tác phẩm, những dấu ấn xuất sắc từ truyện thiếu nhi, hồi ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim,… Ở mảng văn học hiện thực Tô Hoài đã ghi dấu ấn với tập truyện Tây Bắc bao gồm ba truyện ngắn nói về cuộc sống của người dân tộc miền núi phía Bắc những năm tháng trước cách mạng tháng tám. Trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm được biết đến nhiều nhất bởi những giá trị nhân văn, nhân đạo sâu sắc được lồng ghép trong bối cảnh hiện thực đất nước lúc bấy giờ. Có thể nói rằng Tô Hoài chính là người tiên phong “mở đất” khi viết về đời sống của các dân tộc miền núi phía Bắc, đặc biệt hơn là đi sâu vào những bất hạnh và vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn của người phụ nữ dân tộc thiểu số dưới ách áp bức của cả cường quyền, lẫn thần quyền. Mị trong Vợ chồng A Phủ chính là một điển hình cho những số phận bất hạnh, đau khổ tột cùng của vùng trời Tây Bắc, cuộc đời Mị tưởng như đã chết từ khi bước chân vào nhà thống lý Pá Tra, thế nhưng với sức sống mạnh mẽ, khao khát tự do tột độ, trong đêm tình mùa xuân ấy, Mị đã thức giấc, bắt đầu phản kháng, tìm lối thoát cho riêng mình.

Mị xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, bố Mị phải đi vay tiền cưới vợ, món nợ ấy mãi đến khi Mị đã lớn khôn, trở thành một cô gái xinh đẹp, giỏi giang mà vẫn chưa trả hết nợ. Chính món nợ truyền kiếp khốn khổ đó đã kéo theo cuộc đời của Mị xuống những bất hạnh tột cùng. Vì để trả nợ cho cha, Mị phải chấp nhận làm con dâu gán nợ cho nhà thống lý Pá Trá, bị bắt ép chung sống với A Sử, người mà Mị không thương, chấp nhận từ bỏ tình yêu của cuộc đời.

Ngày đầu tiên về là dâu, Mị đã bỏ trốn về nhà, trong tay cầm nắm lá ngón chỉ muốn chết quách đi cho xong, Mị đã cố gắng vùng vẫy, phản kháng để chống lại số phận. Thế nhưng Mị chết rồi thì lấy ai trả nợ cho người cha già, cái hiếu, cái tình đã giữ Mị ở lại với cuộc đời này, thế nhưng Mị sống cũng chẳng khác nào cái xác không hồn, chỉ đơn giản là đang tồn tại. Mang tiếng về làm dâu nhà giàu, nhưng Mị sống không khác gì một nô lệ, làm việc quần quật không kể ngày đêm, liên tục từ mùa này qua tháng khác, chưa từng ngơi nghỉ đến một ngày. Cái khổ sở về thể xác cùng với sự hành hạ về tinh thần khi phải chung sống với người đàn ông vũ phu dường như đã giết chết trái tim, giết chết tâm hồn Mị. Mị tựa như một cỗ máy lao động, suốt mấy năm trời người ta chẳng nghe Mị nói chuyện lần nào, cứ lặng im, “lầm lũi như con rùa trong xó cửa”, đi qua từng năm tháng khổ đau. Rõ ràng là một cô gái xinh đẹp có tài thổi sáo, tuổi đời tầm hai mươi thế nhưng lại sống như một nắm tro tàn, lạnh lẽo, đơn độc, thậm chí không còn cảm nhận được niềm vui sướng hay đau khổ bởi “ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Ấy vậy mà trong sự chai lì đến vô cảm, không thiết tha với cuộc đời, Mị vẫn còn nhận thức được cái khổ đau không bằng loài trâu ngựa của người đàn bà sống trong nhà thống lý Pá Tra rằng “Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày”. Chi tiết nhỏ này đã khắc họa mạnh nỗi đớn đau, bất hạnh cùng cực không chỉ của riêng nhân vật Mị mà là của chung nhiều những thân phận đàn bà khác ở Hồng Ngài, là người nhưng sống kiếp không bằng loài vật nuôi, đớn đau đến tột cùng.

Không chỉ là nỗi đau về thể xác khiến Mị trở nên chai sạn, mà thực tế chính những vết thương trong tâm hồn mới khiến Mị trở nên thờ ơ với tất cả. Từ một cô gái xinh đẹp, thổi sáo, thổi lá giỏi, được biết bao chàng trai si mê, lại có một tình yêu đẹp tưởng như gần đâm hoa kết trái, Mị bỗng trở thành con dâu gán nợ, chịu cảnh chung đụng với một kẻ thô lỗ, bị giam cầm trong một căn phòng tối tăm chỉ có một ô cửa sổ bé bằng lòng bàn tay lúc nào cũng mờ mờ không biết là màu sương hay là màu nắng. Mị phải từ bỏ tất cả những mong ước của đời mình, từ bỏ cuộc sống tự do, chôn vùi tuổi trẻ trong cuộc hôn nhân gán nợ, lấy người chồng sang giàu nhưng chẳng khác nào địa ngục trần gian. Mị không có quyền được lựa chọn, không có một con đường nào khác, cô chỉ còn cách bọc mình lại trong cái vỏ chai lì, lầm lũi để tiếp tục những ngày tháng tối tăm, tuyệt vọng.

Những tưởng cuộc đời Mị cứ mãi thinh lặng, bế tắc và vĩnh viễn bị chôn vùi dưới cái ách của thần quyền và thần quyền, thế nhưng chính đêm tình mùa xuân cùng với tiếng sáo gọi bạn réo rắt – âm thanh của sự sống trong Vợ chồng A Phủ, dường như đã đánh thức tâm hồn Mị. Một tâm hồn chưa chết hẳn, nằm sâu trong nắm tro tàn ấy chính là những hòn than nóng bỏng, vẫn nồng nhiệt niềm khao khát được sống, được tự do của Mị, chỉ trực chờ ngày được phất lên ngọn lửa rực rỡ. Khi mùa xuân đến, những cô gái, chàng trai trẻ tuổi nô nức hẹn hò, người ta khoác lên mình những bộ váy áo màu sắc sặc sỡ, thổi sáo, thổi lá tình tứ suốt ngày này qua ngày nọ. Mị nghe thấy tiếng sáo vọng lại “thiết tha bổi hổi”, trong vô thức mị bất chợt lẩm nhẩm theo bài hát của người vừa thổi, những câu hát mà có lẽ đã lâu lắm rồi Mị không còn nhắc tới. Có thể nói rằng, ở một chi tiết nhỏ này, người ta đã thấy được trái tim vốn chai sạn của Mị hình như đang dần sống lại, bởi lẽ làm gì có người nào lại hát khi tâm hồn đã nguội lạnh. Những câu hát ấy, dù không thành tiếng, thành lời thế nhưng nó lại là tiếng vang của tâm hồn, một tâm hồn khởi sắc, dần bước ra khỏi lớp vỏ chai lì bấy lâu nay vẫn mang.

Sự thay đổi trong tâm hồn Mị càng được bộc lộ rõ ràng thông qua chi tiết Mị uống rượu “Ngày Tết Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Trên thực tế Mị ở trong nhà thống lý Pá Tra không hề có một vị trí nào, cô sống cuộc đời còn bần cùng khổ sở hơn cả loài vật nuôi, thế nên việc uống rượu đối với Mị là một sự kiện xa xỉ, thậm chí nếu bị bắt được có lẽ Mị sẽ bị đánh trói, bắt phạt. Dù thế nhưng Mị vẫn lén lấy rượu uống, điều đó giống như là một sự phản kháng, Mị muốn đòi quyền lợi cho mình, cả nhà thống lý đều được uống rượu ăn Tết đủ đầy, Mị cũng muốn được như vậy, Mị muốn một lần được sống như con người ở cái nơi đã mang đến cho Mị biết bao nhiêu là đau khổ. Và cứ thế Mị uống rượu ừng ực, từng bát, uống không phải để thỏa mãn cái niềm khao khát, thèm muốn, mà dường như Mị đang cố uống cho trôi đi hết tất cả những uất ức khổ đau, cũng là cái cách mà cô thể hiện sự phẫn nộ, khó chịu trong lòng bấy lâu nay. Trong men rượu cay, Mị bỗng nhớ về những ngày xa xăm, khi Mị còn chưa bị ép làm dâu nhà thống lý, cô cũng có một cuộc sống tươi đẹp, tương lai đầy hứa hẹn, khi bản thân Mị là người con gái tài sắc vẹn toàn, chăm chỉ lao động, lại có một tình yêu đẹp sắp đơm bông. Thế nhưng chỉ trong một đêm tất cả đã trở thành ác mộng, càng nghĩ Mị lại càng ngẩn ngơ trong hoài niệm. Thế rồi người cũng về hết, còn lại một mình Mị ngồi trơ giữa nhà, trong lòng Mị bỗng nảy ra điều gì đó, Mị đứng dậy đi vào buồng “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Tâm hồn tưởng đã chết của Mị đã thực sự sống lại một cách diệu kỳ, đã biết bao lâu rồi Mị không còn cảm nhận được cái cảm giác vui sướng, cái phơi phới của một tâm hồn son trẻ, có lẽ là từ lúc Mị bước chân vào nhà thống lý Pá Tra. Không chỉ là về cảm xúc mà dấu ấn chứng minh cho sự sống lại của tâm hồn Mị còn nằm ở nhận thức về cuộc đời về tuổi trẻ của mình “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ”, đồng thời bộc lộ thành khao khát, ước muốn rằng “Mị muốn đi chơi”. Có thể nói rằng đến lúc này niềm khao khát tự do, khao khát được sống, được hưởng thụ cuộc đời của Mị đã bộc lộ một cách rõ rệt nhất. Mị không còn là người đàn bà trẻ tuổi sống lầm lũi, thinh lặng, chịu đựng trong nhà thống lý Pá Tra với khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi nữa, mà đã gần như khôi phục được sự sống quay về với bản tính con người trước kia, một cô gái trẻ đẹp, yêu đời, giỏi thổi sáo, bắt đầu dám phản kháng lại để giành lại hạnh phúc cho bản thân.

Thế nhưng không may rằng dù tâm hồn Mị đã được cởi trói, nhưng thân xác Mị vẫn nằm trong sự khống chế của cường quyền. Trong lúc Mị định thay vào chiếc váy rực rỡ để đi chơi thì A Sử về, nó không cho Mị cái quyền được chơi Tết mà tàn ác túm tóc Mị, rồi trói cô vào cây cột nhà bằng sợi đay, cắt đứt hết những niềm vui sướng vừa nảy nở trong tâm hồn người phụ nữ tội nghiệp. A Sử đi rồi, để lại một mình Mị với căn buồng tối đen, trong hoàn cảnh ấy cứ nghĩ rằng Mị sẽ sụp đổ và tuyệt vọng thêm một lần nữa, nhưng không, “Mị đứng im lặng, như không biết mình bị trói”, lòng Mị vẫn đang nghĩ về những cuộc chơi, những đám chơi mà Mị khao khát. Dường như dây trói của A Sử có chặt hơn nữa, thì cũng chỉ giữ lại được thân xác này của Mị chứ không thể trói buộc được cái tâm hồn khao khát tự do mãnh liệt của cô. Mị bắt đầu phản kháng “Mị vùng bước đi” nhưng dây trói siết lại, “tay chân đau không cựa được”, nghe tiếng ngựa đạp vào vách, Mị lần nữa ý thức được nỗi đau thân phận rằng bản thân thậm chí còn chẳng bằng con ngựa. Bởi lẽ, con ngựa còn được tự do đôi chân mà đạp vào vách, còn Mị cả chân tay đều bị trói cứng không thể cựa quậy, Mị chảy nước mắt, nghĩ về cuộc đời đau khổ của mình bằng một tâm thế xót xa, cái mà bao lâu nay Mị dường như đã bỏ qua.

Đêm tình mùa xuân đã kết thúc bằng việc Mị bị trói đứng trong buồng ngủ, thế nhưng đó không phải là sự kết thúc, mà thực tế rằng tất cả những sự kiện diễn ra tuần tự đều có ý nghĩa dần dà đánh thức tâm hồn đang nép kỹ trong lớp vỏ chai sần của Mị. Cho đến khi Mị hoàn toàn ý thức được nỗi đau thân phận, ý thức được giá trị của bản thân, cùng với niềm khao khát mãnh liệt được sống, được tự do, thì cũng chính là lúc Mị hoàn toàn sống lại một cách đúng nghĩa cả thể xác lẫn tinh thần. Sự kiện A Sử trói Mị chính là tiền đề, khởi đầu cho những sự phản kháng mạnh mẽ, tự giải thoát cho người khác và cho chính bản thân Mị, để tìm đến một cuộc đời, một tương lai mới tốt đẹp hơn.

Mị trong Vợ chồng A Phủ là một nhân vật điển hình cho nhiều đồng bào miền núi phía Bắc có số phận bất hạnh, phải chịu cảnh áp bức bóc lột của cả cường quyền và thần quyền trong giai đoạn trước cách mạng tháng tám. Với tình cảm gắn bó tha thiết và đôi mắt thấu hiểu của mình Tô Hoài không chỉ phản ánh hiện thực xã hội đầy khắc nghiệt mà còn thông qua đó bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong từng nhân vật, mà ở Mị là vẻ đẹp tài năng, nhan sắc, nhân cách, sự khao khát tự do mãnh liệt, tình yêu cuộc sống tha thiết, sự phản kháng mạnh mẽ đối với những bất công mà cô phải gánh chịu, để tự giải thoát cho chính bản thân và cả người khác.

—/—

Như vậy THPT Ninh Châu đã trình bày xong bài văn mẫu Cảm nhận đoạn trích Bây giờ Mị cũng không nói. Hy vọng sẽ giúp ích các em trong quá trình làm bài và ôn luyện cùng tác phẩm. Chúc các em học tốt môn Văn!

Đăng bởi: Đại Học Đông Đô

Chuyên mục: Lớp 12, Ngữ Văn 12

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button